Thứ Sáu, 15 tháng 10, 2021

Chuyện khó nói: Chủ doanh nghiệp cần làm gì để ly hôn “an toàn”

Chuyện khó nói: Chủ doanh nghiệp cần làm gì để ly hôn “an toàn”

(Luật sư Nguyễn Hữu Phước & Lý Ngọc Huỳnh Nhi)

Ngày 4/5/2021 vừa qua, dư luận đã có dịp xôn xao về thông tin bất ngờ của vụ việc ly hôn giữa người sáng lập Microsoft đó là tỷ phú Bill Gates và vợ là Melina French Gates. Thu hút sự quan tâm nhiều nhất chính là vấn đề tài chính liên quan đến Quỹ từ thiện tư nhân của Bill và Melinda Gates với giá trị tài sản ròng hiện tại ước tính lên đến 51 tỷ USD. Nóng hổi hơn, mới ngày 7/5 đây thôi, vụ ly hôn "nghìn tỷ" giữa Đặng Lê Nguyên Vũ và Lê Hoàng Diệp Thảo vừa vào hồi kết sau hơn 6 năm dằng dẵng, theo đó, ông Vũ được sở hữu toàn bộ cổ phần tại các công ty thuộc Tập đoàn Trung Nguyên trị giá 5.655 tỷ đồng nhưng phải trả số tiền tương đương 40% cổ phần cho bà Thảo. Trước đó nữa, không thể không nhắc đến vụ ly hôn “đắt xắt ra miếng” giữa ông chủ Amazon Jeff Bezos và vợ cũ MacKenzie Scott. Thỏa thuận ly hôn được dàn xếp, MacKenzie nhận được 25% của tổng khối tài sản, tương ứng với 4% cổ phiếu của tập đoàn Amazon, ước tính trị giá khoảng 35 tỷ USD tại thời điểm đó.

Yêu đương là chuyện hai người, nhưng hôn nhân lại là vấn đề không chỉ dính dáng đến người trong cuộc, người trong gia đình, mà còn có thể liên quan đến một nhóm người hay cả một cộng đồng nào đó trong xã hội. Nhìn trực diện vào các vụ ly hôn tốn không ít giấy mực trên, có thể nhận thấy rằng, ly hôn không chỉ còn là chuyện đời tư một cá nhân, mà còn có thể là một sự kiện quan trọng làm phát sinh rất nhiều vấn đề pháp lý làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh bình thường của một hay nhiều doanh nghiệp mà một trong hai vợ chồng đang có lợi ích trong đó.

Cùng với dòng chảy sự kiện đó, trong bài viết này, chúng ta hãy thử nhìn lại vấn đề ly hôn từ một góc nhìn hẹp hơn đó chính là: Góc độ tài sản của người đứng đầu doanh nghiệp.

Hiện nay, pháp luật Việt Nam công nhận, tôn trọng và ưu tiên nguyên tắc phân chia tài sản theo sự thỏa thuận giữa hai bên vợ chồng về mọi vấn đề có liên quan đến tài sản chung của họ[1]. Chỉ trong trường hợp các bên không thể tự thỏa thuận được thì lúc đó mới có thể yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết chia tài sản khi ly hôn theo quy định pháp luật. Theo đó, trong trường hợp áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định để chia tài sản khi ly hôn, thì tài sản của riêng bên nào sẽ vẫn thuộc về của bên đó (nếu có), còn đối với các tài sản chung của vợ chồng thì Tòa án sẽ xem xét giải quyết theo nguyên tắc chung là chia đôi 50/50 cho các bên[2]. Tuy nhiên, câu chuyện thực tế sẽ không đơn giản như vậy. Trong khi miếng bánh cắt đôi còn làm cho kẻ này cười người kia khóc, thì chia đôi một căn nhà, thửa đất, một doanh nghiệp sẽ không còn là việc chia sao cho đều, mà kéo theo sau đó là hàng loạt các vấn đề pháp lý cần những người trong cuộc phải đủ khôn khéo để dàn xếp sao cho thấu tình đạt lý trong khuôn khổ pháp luật.

Khi tài sản chung được phân chia là cổ phần, phần vốn góp trong doanh nghiệp, cần lưu ý rằng, những thông tin trên giấy chứng nhận đăng ký phần vốn góp của công ty TNHH hay cổ phiếu của công ty cổ phần thường chỉ ghi tên vợ hoặc chồng là người sở hữu trên danh nghĩa, đến khi đường ai nấy đi, thì việc chia đôi loại tài sản này không đơn giản là chuyện xé đôi một tờ giấy pháp lý về mặt vật lý, mà câu chuyện chia đôi tài sản này chắc chắn sẽ đẩy người vốn nắm quyền kiểm soát trong doanh nghiệp vào thế bị động đối với các quyết định trong việc quản lý, vận hành doanh nghiệp khi họ không còn chiếm giữ vị trí ưu thế trong cơ cấu vốn của doanh nghiệp.

Trong trường hợp sau chia tài sản, người vợ hoặc chồng được nhận phần vốn góp, cổ phần trở thành thành viên góp vốn hay cổ đông của công ty, dù không có chuyên môn nghiệp vụ quản lý, nhưng lại có quyền chi phối trong doanh nghiệp, sẽ dễ bị thao túng hay làm ảnh hưởng không ít đến việc vận hành bình thường của  doanh nghiệp. Không dừng lại ở đó, đối với những doanh nghiệp có đăng ký kinh doanh các ngành, nghề kinh doanh có giới hạn tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài, thì việc chia đôi phần vốn góp, cổ phần trong vụ việc ly hôn có một bên vợ chồng là người nước ngoài sẽ làm tỷ lệ sở hữu của bên nước ngoài trong doanh nghiệp tăng ngoài dự tính. Sự kiện này vô hình chung lại buộc doanh nghiệp phải đối mặt với nguy cơ bị xử phạt vi phạm pháp luật về đầu tư và phải đăng ký điều chỉnh các giấy phép của doanh nghiệp.

Trên thực tế, quy định của pháp luật và thực tiễn xét xử tại Việt Nam đều hướng tới tinh thần chung là đảm bảo việc chia đôi tài sản của vợ chồng được thực hiện gắn liền với mục đích bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong hoạt động sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp của vợ chồng để hai bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo ra thu nhập[3]. Trong các bản án của Tòa án về phân chia tài sản là phần vốn góp, cổ phần trong doanh nghiệp gần đây, khi vợ chồng không thể đạt được thỏa thuận với nhau về việc tự phân chia tài sản, Tòa án sẽ xem xét và giao quyền quyết định nắm giữ số cổ phần, phần vốn góp cho một bên, mà thông thường chính là người đang đứng tên trong điều lệ, giấy phép thành lập doanh nghiệp và thực tế đang dấn thân vào việc quản lý, điều hành hoạt động thường nhật của doanh nghiệp.

Trên thực tế áp dụng, vì lợi ích của doanh nghiệp, thường sẽ có 02 phương án giải quyết sau: (i) một bên vợ hoặc chồng đứng tên trên giấy tờ sẽ tặng cho bên còn lại phần vốn góp, cổ phần theo nguyên tắc chia đôi 50/50, song song với việc giao kết thỏa thuận mà theo đó một trong hai bên sẽ ủy quyền quyền biểu quyết cho bên vợ hoặc chồng còn lại, là bên trực tiếp quản lý, điều hành hoạt động của doanh nghiệp (đây cũng là trường hợp được chọn của ông chủ tập đoàn Amazon, khi vợ cũ MacKenzie Scott đã trao lại quyền bỏ phiếu trong tập đoàn Amazon cho Jeff Bezos tại Amazon, giúp chủ tịch Amazon vẫn giữ nguyên được 16% quyền biểu quyết để kiểm soát Amazon); hoặc (ii) bên vợ hoặc chồng nắm giữ tài sản này có trách nhiệm “thối” lại tiền cho bên còn lại (đây cũng là phương thức phân chia tài sản thường được các cặp vợ chồng lựa chọn nếu một bên không có đủ trình độ chuyên môn, kinh nghiệm quản trị doanh nghiệp và cũng không có nguyện vọng muốn tham gia vào việc quản lý, điều hành doanh nghiệp của bên kia). Tuy nhiên, nếu một trong hai bên lại không có đủ tiền mặt tại vào thời điểm đó để trả lại cho bên còn lại, phương án thứ hai lại đặt ra vấn đề thách thức về dòng tiền đối với bên giành được quyền nắm giữ số cổ phần, phần vốn đó. Để giải quyết vấn đề thanh toán này, bên vợ hoặc chồng được giao nắm giữ số cổ phần, phần vốn góp có thể cân nhắc đến phương án hoán đổi tài sản, tức là sử dụng các tài sản riêng của bên đó (nếu có) và/hoặc các tài sản từ khối tài sản chung của vợ chồng được chia cho mình để trao đổi với số tiền phải trả cho bên vợ hoặc chồng còn lại. Một hướng khác nữa mà cũng cần vợ chồng cân nhắc đến, đó là dùng chính các giấy tờ có giá đó (vẫn do một bên vợ hoặc chồng nắm giữ đứng tên) đi cầm cố tại các ngân hàng thương mại[4] để lấy tiền mặt trả cho bên còn lại nhằm hoàn tất nghĩa vụ thanh toán cho bên vợ hoặc chồng có quyền, đồng thời bên vợ hoặc chồng nắm giữ vẫn đảm bảo tư cách tham gia quản lý, điều hành doanh nghiệp (tuy nhiên, sự thu xếp như thế này cần phải được sự đồng ý bằng văn bản trước của bên còn lại thì mới có thể thực hiện được).

Dưới góc nhìn của cá nhân, việc ly hôn chắc chắn sẽ có tác động không nhỏ đến đời sống tinh thần của người vợ hoặc chồng là người quản lý, điều hành doanh nghiệp. Khi tư tưởng còn nhiều vướng bận đối với vấn đề tình cảm vợ chồng, con cái, việc ly hôn, tất nhiên sự tập trung, năng suất làm việc của người chủ doanh nghiệp chắc chắn sẽ bị giảm sút. Và càng có nhiều vấn đề đáng lo ngại hơn phát sinh khi việc xử lý chia đôi tài sản theo quy định của pháp luật buộc vợ chồng, dù muốn hay không, phải công khai cho ít nhất là Tòa án, luật sư của các bên, cơ quan thi hành án tất cả các thông tin có liên quan đến khối tài sản của hai bên để phân định xem tài sản nào là tài sản chung của hai vợ chồng và tài sản nào là của riêng của từng người đem ra chia để đảm bảo quyền lợi của mình. Các thông tin này, sau đó, sẽ có rủi ro có thể bị rò rỉ ra ngoài cho truyền thông, mạng xã hội bằng cách nào đó mà sẽ làm ảnh hưởng đến không chỉ chính hai vợ chồng mà còn đối với những người khác chẳng hạn như cổ đông, người lao động …

Câu chuyện vạch áo cho người xem lưng vốn dĩ là điều không ai mong muốn cả. Ở các nước phát triển, các công ty, tập đoàn lớn, họ thường sẽ chủ động tìm mua các sản phẩm bảo hiểm dành cho những người ở cấp quản lý quan trọng nhất của doanh nghiệp để phòng ngừa các trường hợp bất trắc, bao gồm cả trường hợp ly hôn có thể xảy ra mà có thể làm đảo lộn hoạt động kinh doanh bình thường của doanh nghiệp, gây hậu quả xấu đến giá chứng khoán, niềm tin của khách hàng, cổ đông...

Vấn đề nào rồi cũng phải có cách giải quyết khi tàn cuộc, tuy nhiên có thể nhận thấy rằng, đa số phương thức giải quyết ở trên đều quy về một mối đó chính là đề cao sự thỏa thuận của vợ chồng. Các bên vợ chồng rõ ràng có thể nhận thấy các rủi ro tiềm tàng, nhưng lại không chủ động đối diện trực tiếp với vấn đề ngay từ khi vấn đề chưa nảy sinh mâu thuẫn và có những bước hành xử sao cho phù hợp nhất. Việc chia đôi tài sản của vợ chồng dù ít hay nhiều sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực không chỉ gói gọn trong nội bộ gia đình mà còn đi xa hơn vào trong thượng tầng quản lý của các doanh nghiệp, liên quan đến miếng cơm manh áo của nhiều người lao động, cổ đông, thành viên góp vốn khác, các đối tác, nhà cung cấp…. của doanh nghiệp. Xem xét đến đó cho thấy, việc thỏa thuận về tài sản trước và trong thời kỳ hôn nhân sẽ là một động thái hết sức cần thiết nên được các cặp vợ chồng cân nhắc thực hiện để giảm thiểu rủi ro phát sinh.

Cùng với tinh thần đó, trong giai đoạn tiền hôn nhân, quy định của Luật Hôn nhân và gia đình đã mở ra cánh cửa giải quyết vấn đề này qua việc công nhận chế định thỏa thuận tiền hôn nhân (prenuptial agreement) về tài sản qua việc quy định thỏa thuận xác lập chế độ tài sản của vợ chồng được xác lập trước khi kết hôn, bằng hình thức văn bản thỏa thuận có công chứng hoặc chứng thực. Theo đó, tùy vào điều khoản thỏa thuận mà vợ chồng sẽ giới hạn lại phần tài sản được tính là tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân và như vậy họ sẽ bảo toàn khối tài sản riêng của từng bên trong trường hợp ly hôn.

Còn trong giai đoạn hôn nhân, vợ chồng, vào bất kỳ thời điểm nào, cũng đều có quyền thỏa thuận chia khối tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân theo quy định của pháp luật. Theo đó, vợ chồng đều có quyền thỏa thuận chia một phần hoặc toàn bộ khối tài sản chung bằng văn bản được công chứng theo yêu cầu của vợ chồng, hoặc trong trường hợp thỏa thuận đối với các loại tài sản phải thực hiện đăng ký quyền sở hữu, hay các trường hợp khác theo quy định của pháp luật.

Dưới góc độ tư tưởng của người Việt Nam, việc vợ chồng đặt bút ký thỏa thuận chia tài sản thường được nhìn nhận như một biên bản chấm dứt được soạn thảo sẵn dự liệu kết cục tiền định của một cuộc hôn nhân. Tuy nhiên, trên cương vị một người chủ doanh nghiệp, phải chăng đã đến lúc phải bỏ qua định kiến và lường trước rủi ro mà doanh nghiệp sẽ phải đối mặt khi hôn nhân của họ đi vào hồi kết?


[1] Điều 59.1 Luật Hôn nhân gia đình

 

[2] Điều 59.2 Luật Hôn nhân gia đình

[3] Điều 7.4(c) – Thông tư liên tịch 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP

[4] Điều 1.1. và Điều 1.8 – Nghị định 11/2012/ND-CP

Những Rủi Ro Ẩn Giấu và Hậu Quả Pháp Lý của Việc Sử Dụng Người Đứng Tên Trong Các Hoạt Động Kinh Doanh

Giới thiệu Trong nền kinh tế thị trường đang phát triển, đặc biệt là tại các quốc gia mà cơ chế quản lý vẫn đang trong quá trình hoàn thiện ...