Thứ Ba, 17 tháng 12, 2024

Làm Sao Để Thưởng Tết 2025 Được Tính Vào Chi Phí Hợp Lý? Bí Quyết Doanh Nghiệp Không Thể Bỏ Qua!

Luật sư Nguyễn Hữu Phước - Công ty luật Phuoc & Partners

Tết Và Tập Tục “Thưởng Tết” hay "Tháng Lương Thứ 13"

Tết đến xuân về là thời điểm người lao động háo hức mong chờ khoản thưởng Tết, hay còn được gọi là Tháng lương thứ 13, một khoản thưởng đầy ý nghĩa từ doanh nghiệp. Họ thường xem đây như một khoản "bắt buộc không thể thiếu" dành cho mình, mặc dù xét về mặt pháp lý thì đây không phải là khoản bắt buộc đối với doanh nghiệp. Tuy nhiên, để khoản thưởng Tết 2025 được tính vào chi phí hợp lý khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN), doanh nghiệp cần tuân thủ đầy đủ các quy định pháp luật hiện hành. Nghe có vẻ đơn giản, nhưng nếu không cẩn thận, doanh nghiệp dễ gặp rắc rối với cơ quan thuế hoặc bỏ lỡ cơ hội tối ưu hóa lợi nhuận một cách hợp pháp.



Theo quy định hiện hành, để khoản thưởng Tết được tính vào chi phí hợp lý, doanh nghiệp cần đáp ứng một số điều kiện quan trọng. Đầu tiên, khoản chi này phải liên quan trực tiếp đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Điều này có nghĩa là doanh nghiệp phải chứng minh được rằng việc thưởng Tết nhằm động viên, giữ chân người lao động hoặc giúp nâng cao hiệu quả làm việc của họ. Thưởng Tết không đơn thuần là một "phép lịch sự", mà còn là chiến lược nhân sự quan trọng để doanh nghiệp phát triển bền vững. Một khoản thưởng hợp lý sẽ không chỉ giúp doanh nghiệp giữ chân nhân tài, thu hút người giỏi, cải thiện tinh thần làm việc của người lao động, xây dựng hình ảnh thương hiệu tốt đẹp mà còn không làm tăng chi phí tiền lương. Điều này đặc biệt quan trọng vì tiền thưởng theo quy định sẽ không được tính vào tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội và các loại bảo hiểm khác cho người lao động.

Kế tiếp, để khoản thưởng được tính vào chi phí hợp lý, mức thưởng và điều kiện nhận thưởng phải được ghi rõ ràng trong một trong các văn bản chính thức như: hợp đồng lao động hay phụ lục hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể, quy chế tài chính của doanh nghiệp hoặc quyết định thưởng do Tổng Giám đốc hay Chủ tịch Hội đồng quản trị ký. Trong số này, quy chế thưởng được khuyến khích ban hành nhất nhờ tính thống nhất, minh bạch và tiện lợi của nó. Hiện nay, pháp luật không quy định cụ thể về mẫu quy chế thưởng trong doanh nghiệp. Do đó, doanh nghiệp có thể tự thiết kế mẫu quy chế thưởng sao cho phù hợp với đặc điểm hoạt động và yêu cầu quản lý của mình. Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc sẽ là người có quyền ban hành quy chế thưởng, trừ trường hợp Điều lệ công ty có quy định khác.

Hơn thế nữa, sau khi ban hành quy chế thưởng, doanh nghiệp cần có quyết định thưởng cụ thể cho năm 2025 khi thực hiện việc chi thưởng. Nếu khoản chi được thực hiện bằng tiền mặt, doanh nghiệp cần có phiếu chi. Trong trường hợp chuyển khoản, cần có ủy nhiệm chi làm cơ sở chứng minh để khoản chi này được xác định là chi phí hợp lý khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp.

Cuối cùng, doanh nghiệp cần lưu ý rằng việc hạch toán và thực hiện chi thưởng phải được thực hiện trong năm tài chính trước thời điểm quyết toán thuế thu nhập doanh nghiệp, nếu doanh nghiệp muốn khoản chi thưởng được ghi nhận vào năm tài chính hiện tại.

Doanh Nghiệp Có Bắt Buộc Phải Có Quy Chế Thưởng Không?

Theo quy định hiện hành, pháp luật không bắt buộc doanh nghiệp phải ban hành quy chế thưởng. Tuy nhiên, việc không có quy chế thưởng sẽ khiến doanh nghiệp gặp khá nhiều bất cập. Thứ nhất, nếu không có quy chế thưởng, doanh nghiệp sẽ phải ghi mức thưởng và điều kiện nhận thưởng vào từng hợp đồng lao động hoặc phụ lục hợp đồng lao động, hoặc thỏa ước lao động tập thể (nếu có). Khi chính sách thưởng thay đổi, doanh nghiệp sẽ phải điều chỉnh thủ công từng hợp đồng lao động một. Điều này không chỉ tốn thời gian mà còn làm tăng nguy cơ không nhất quán về nội dung giữa các hợp đồng, dễ dẫn đến tranh chấp hoặc hiểu lầm giữa doanh nghiệp và người lao động. Chỉ cần một lỗi nhỏ trong việc ghi chép cũng có thể làm thay đổi bản chất chính sách thưởng, gây bất lợi cho cả hai bên.

Thứ hai, việc không có quy chế thưởng cũng gây khó khăn khi doanh nghiệp muốn đưa khoản thưởng này vào chi phí hợp lý được trừ của mình. Quy chế thưởng là căn cứ pháp lý rõ ràng và dễ dàng để chứng minh với cơ quan thuế rằng khoản chi thưởng đã được hoạch định và thực hiện một cách nhất quán. Nếu không có quy chế thưởng, doanh nghiệp sẽ phải mất công giải trình và có nguy cơ bị cơ quan thuế loại khoản thưởng này ra khỏi chi phí hợp lý, dẫn đến gánh nặng thuế không đáng có cho doanh nghiệp.

Thứ ba, quy chế thưởng giúp tạo sự minh bạch và công bằng giữa các nhóm lao động khác nhau trong doanh nghiệp. Khi tiêu chí và mức thưởng được quy định rõ ràng, người lao động sẽ cảm thấy yên tâm hơn trong công việc, hạn chế tình trạng hiểu nhầm hoặc xảy ra tranh chấp không đáng có. Ngoài ra, việc ban hành quy chế thưởng còn giúp tiết kiệm thời gian và công sức cho bộ phận nhân sự và kế toán, tránh việc phải giải thích riêng lẻ cho từng trường hợp hoặc phải cập nhật điều kiện thưởng vào từng hợp đồng lao động.

Vai Trò Của Tổ Chức Đại Diện Người Lao Động

Tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở (thường là công đoàn cơ sở) đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng và thực thi quy chế thưởng. Trước tiên, công đoàn cơ sở có trách nhiệm tham gia ý kiến khi doanh nghiệp xây dựng quy chế thưởng, đảm bảo rằng chính sách thưởng đáp ứng quyền lợi hợp lý của người lao động. Thông qua công đoàn cơ sở, người lao động có thể gửi phản hồi, kiến nghị hoặc đề xuất về nội dung quy chế thưởng tại từng thời điểm, tạo điều kiện để cả hai bên hiểu nhau hơn.

Ngoài ra, công đoàn cơ sở còn có vai trò giám sát việc thực hiện quy chế thưởng. Họ đảm bảo rằng doanh nghiệp thực hiện chính sách thưởng đã công bố một cách công bằng và minh bạch. Nếu phát hiện sai lệch hoặc vi phạm, công đoàn cơ sở có thể đại diện cho người lao động để làm việc với doanh nghiệp hoặc thậm chí cơ quan quản lý lao động địa phương (trong trường hợp khiếu nại), nhằm giải quyết kịp thời các vấn đề phát sinh. 

Tóm lại, thưởng Tết 2025 không chỉ là câu chuyện tài chính, mà còn là cách để doanh nghiệp thể hiện sự trân trọng đối với người lao động, xây dựng hình ảnh tích cực và thúc đẩy sự gắn bó lâu dài của họ. Dù pháp luật không bắt buộc doanh nghiệp phải có quy chế thưởng, nhưng việc xây dựng một quy chế thưởng rõ ràng, minh bạch và phù hợp là điều vô cùng cần thiết. Nó không chỉ giúp doanh nghiệp tránh những tranh chấp không đáng có mà còn tạo cơ sở vững chắc để khoản thưởng trở thành chi phí hợp lý khi tính thuế.

Tết là dịp để doanh nghiệp và người lao động cùng nhìn lại một năm đã qua, đặt nền móng cho những thành công mới. Vì thế, hãy xây dựng chính sách thưởng thông minh để cả doanh nghiệp và người lao động đều đón một mùa xuân tràn đầy niềm vui và hy vọng.

Thứ Ba, 10 tháng 12, 2024

Bốn Loại Đất Nông Nghiệp Đầy Tiềm Năng Đầu Tư Sau Ngày 1/8/2024: Cơ Hội, Rủi Ro Và Cơ Sở Pháp Lý

 

Bốn Loại Đất Nông Nghiệp Đầy Tiềm Năng Đầu Tư Sau Ngày 1/8/2024: Cơ Hội, Rủi Ro Và Cơ Sở Pháp Lý

Luật sư Nguyễn Hữu Phước - Công ty luật Phuoc & Partners

Từ ngày 1/8/2024, những thay đổi trong Luật Đất đai sửa đổi chính thức có hiệu lực, mang lại nhiều cơ hội hấp dẫn cho thị trường bất động sản, đặc biệt trong lĩnh vực đất nông nghiệp. Hàng loạt chính sách mới trong Luật Đất đai hứa hẹn mở ra triển vọng đầu tư sáng giá cho các loại đất nông nghiệp tại Việt Nam. Trong số đó, bốn loại đất nông nghiệp được xem là “đất vàng” để đầu tư nhờ vào khả năng sinh lời cao và tính linh hoạt. Tuy nhiên, để đưa ra quyết định đầu tư sáng suốt, nhà đầu tư cần hiểu rõ cơ hội, rủi ro, cũng như các quy định pháp lý áp dụng cho từng loại đất nhằm nắm bắt đúng thời điểm và giảm thiểu rủi ro.

Đầu tiên, đất nông nghiệp kết hợp đa mục đích (trừ đất trồng lúa) là loại hình đất đặc biệt, lần đầu tiên được quy định trong Luật Đất đai sửa đổi năm 2024. Loại đất này, khi thỏa mãn một số điều kiện theo quy định, có thể được phép sử dụng cho nhiều mục đích, không chỉ để canh tác nông nghiệp mà còn có thể xây dựng công trình phục vụ trực tiếp sản xuất mà không cần giấy phép xây dựng với điều kiện thỏa mãn tỷ lệ diện tích đất tối đa để xây dựng công trình phục vụ trực tiếp sản xuất nông nghiệp tối đa tùy quy định của từng địa phương cũng như độ cao và tầng hầm công trình. Bên cạnh đó, Luật Đất đai sửa đổi cũng cho phép đất nông nghiệp có thể được sử dụng kết hợp đa mục đích cho mục đích thương mại, dịch vụ, chăn nuôi hoặc trồng cây dược liệu, với điều kiện diện tích đất sử dụng cho mục đích phụ trợ không vượt quá 50% diện tích dùng cho mục đích chính là nông nghiệp. Do đó, ngoài chức năng chính là làm nông nghiệp, loại đất này có tiềm năng lớn trong phát triển du lịch nông nghiệp, đặc biệt ở các khu vực có vị trí đẹp như gần núi, sông hoặc danh lam thắng cảnh, thu hút du khách muốn trải nghiệm không gian sinh thái và nông thôn.

Nếu sở hữu đất nông nghiệp kết hợp đa mục đích, nhà đầu tư có thể khai thác hoạt động phụ trợ để tạo nguồn thu nhập ổn định trước khi bán lại. Thay vì để đất hoang hóa trong thời gian chờ tăng giá, làm giảm giá trị đất và lãng phí tài nguyên, các hoạt động phụ trợ như kho bãi, nhà tạm, homestay sẽ giúp tối ưu hóa lợi nhuận, tăng giá trị mảnh đất và thu hút nhà đầu tư mua lại. Tuy nhiên, để chuyển đổi từ đất nông nghiệp thông thường sang đất nông nghiệp kết hợp đa mục đích, nhà đầu tư phải hoàn thành thủ tục đăng ký tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ở địa phương. Hồ sơ gồm văn bản đề nghị sử dụng đất kết hợp đa mục đích, phương án sử dụng đất kết hợp và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hiện có. Quy trình này là điều kiện tiên quyết để lô đất được phép sử dụng kết hợp, đảm bảo tính hợp pháp và bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư.

Mặc dù đất nông nghiệp đa mục đích có tiềm năng lớn như thế, nó cũng tiềm ẩn những rủi ro nhất định về quy hoạch và khả năng chuyển đổi sử dụng. Việc chuyển đổi từ đất nông nghiệp thông thường sang đất nông nghiệp kết hợp đa mục đích không phải lúc nào cũng dễ dàng được chấp thuận, vì cần đảm bảo công trình xây dựng trên đất nông nghiệp phải phù hợp, dễ tháo dỡ và không ảnh hưởng đến mục đích chính là canh tác nông nghiệp. Bên cạnh đó, một số khu vực đất nông nghiệp có thể thuộc vùng bảo tồn hoặc dự trữ, hạn chế khả năng khai thác tối đa. Để tránh rủi ro, nhà đầu tư cần tìm hiểu quy hoạch sử dụng đất tại địa phương, đảm bảo khu đất nằm trong khu vực được phép sử dụng kết hợp đa mục đích. Đặc biệt, cần lưu ý diện tích đất sử dụng cho các hoạt động thương mại, dịch vụ phải trả tiền thuê đất hàng năm theo bảng giá đất do Hội đồng nhân dân tỉnh quy định. Nhà đầu tư cần tính toán chi phí này để đảm bảo lợi nhuận từ hoạt động phụ trợ cao hơn chi phí thuê đất, giúp xác định liệu việc chuyển đổi sang đất đa mục đích có mang lại hiệu quả kinh tế thực sự không.

Loại đất thứ hai được đánh giá là hấp dẫn cho nhà đầu tư là đất nông nghiệp nằm trong khu quy hoạch. Đây là đất có tiềm năng cao cho các dự án công ích hoặc phát triển đô thị, là cơ hội cho các nhà đầu tư chiến lược. Theo khoản 5 Điều 49 của Luật Đất đai sửa đổi, thời gian quy hoạch đất có thể kéo dài tối đa 2 năm và có thể gia hạn thêm 2 năm. Đặc biệt, nếu sau thời gian này mà đất không được chuyển đổi, quy hoạch sẽ phải xóa bỏ, nhà đầu tư do đó có thể sử dụng đất theo nhu cầu riêng của mình và do đó giá trị đất sẽ tăng cao. Ngoài ra, lợi thế khi đầu tư vào loại đất này là khả năng nhận đền bù nếu đất bị thu hồi, theo bảng giá đất hàng năm quy định tại Điều 114 của Luật Đất đai sửa đổi trên cơ sở giá thị trường. Trong trường hợp đất bị thu hồi, nhà đầu tư được đền bù theo giá thị trường và nhận trợ cấp tái định cư, chi phí di dời, hỗ trợ nghề nghiệp quy định tại Điều 83 Luật Đất đai sửa đổi, giảm thiểu tổn thất tài chính cho nhà đầu tư. 

Tuy nhiên, rủi ro lớn của loại đất này là nguy cơ đất bị thu hồi đột ngột khi dự án quy hoạch được triển khai, hoặc hết thời gian quy hoạch tối đa. Giá trị bồi thường tại thời điểm đó đôi khi không tương xứng với giá trị thị trường thực tế của đất, đặc biệt ở các khu vực kém phát triển, khiến nhà đầu tư dễ chịu thiệt hại. Để hạn chế rủi ro, nhà đầu tư cần đánh giá dự án quy hoạch và cơ sở hạ tầng xung quanh để xác định tiềm năng sinh lời và tiền đền bù. Điều này giúp nhà đầu tư chuẩn bị vốn dài hạn và sẵn sàng chờ đợi đến khi quy hoạch hoàn thành để đạt được lợi nhuận như kỳ vọng.

Loại đất nông nghiệp thứ ba, có sức hấp dẫn đặc biệt là đất nông nghiệp xen kẹt trong khu dân cư. Đất xen kẹt là những mảnh đất nằm trong khu dân cư, có lợi thế lớn về khả năng chuyển đổi lên đất thổ cư, từ đó làm tăng giá trị đất đáng kể. Theo Điều 57 của Luật Đất đai sửa đổi, loại đất này có thể chuyển đổi từ đất nông nghiệp lên đất ở nếu đáp ứng các điều kiện về quy hoạch và mục đích sử dụng. Với vị trí nằm ngay trong khu dân cư đã có hạ tầng hoàn thiện, đất xen kẹt có thể chuyển lên thổ cư để phục vụ nhu cầu nhà ở. Đất này có thể sinh lời mạnh khi nhu cầu nhà ở tăng cao, đặc biệt tại các khu vực phát triển đô thị trong khi Nhà nước cấm các nhà phát triển dự án bất động sản phân lô bán nền tại những khu vực đó làm nguồn cung đất phân lô bị nghẽn.

Dù có tiềm năng như vậy nhưng đất xen kẹt cũng ẩn chứa nhiều rủi ro pháp lý và khả năng chuyển đổi. Theo đó, không phải tất cả các mảnh đất xen kẹt nào cũng đều có thể chuyển đổi thành đất thổ cư, đặc biệt ở các khu vực có quy hoạch công ích như công viên hoặc các khu bảo tồn. Bên cạnh đó, một số lô đất có thể gặp vấn đề tranh chấp quyền sở hữu, nhất là khi lịch sử đất có tính chất phức tạp. Để hạn chế rủi ro này, nhà đầu tư cần xác minh quy hoạch đất tại địa phương và đảm bảo có đầy đủ giấy tờ chứng nhận quyền sử dụng đất, đồng thời ký hợp đồng rõ ràng về quyền lợi của mỗi bên nhằm tránh tranh chấp.

Cuối cùng, đất nông nghiệp giá quá rẻ là lựa chọn phù hợp cho những ai muốn tìm kiếm cơ hội đầu tư tiết kiệm và dài hạn. Đất này thường có giá thấp hơn nhiều so với bảng giá đất hàng năm của Nhà nước tại thời điểm đó do vị trí xa trung tâm, quy hoạch chưa rõ ràng, hoặc do chủ đất cần bán gấp vì nhiều lý do cá nhân khác nhau. Theo Điều 112 của Luật Đất đai, giá đất hàng năm phải phản ánh giá trị thực của đất, điều này sẽ giúp nhà đầu tư dễ dàng đánh giá giá mua hợp lý nhất cho mình. Đất nông nghiệp giá quá rẻ sẽ phù hợp với những nhà đầu tư nào có vốn dồi dào, và có thể sinh lời lớn khi khu vực này phát triển hạ tầng giao thông.

Tuy nhiên, loại đất này cũng đi kèm rủi ro về vị trí lô đất và tính pháp lý. Đất nông nghiệp giá quá rẻ có thể thiếu sổ đỏ hoặc quyền sở hữu không rõ ràng, dễ dẫn đến tranh chấp hoặc mất vốn. Ngoài ra, nhà đầu tư còn phải chôn vốn tự có hoặc vốn vay ngân hàng trong một thời gian dài, ảnh hưởng đến dòng tiền. Để giảm thiểu rủi ro, nhà đầu tư cần kiểm tra kỹ hồ sơ pháp lý và quy hoạch tại địa phương, qua đó dự đoán thời gian chờ đợi dựa trên quy hoạch phát triển đô thị. Bên cạnh đó, nhà đầu tư cũng cần phài có vốn lưu động khá thoải mái để trả lãi ngân hàng trong thời gian chờ giá đất tăng.

Tóm lại, bốn loại đất nông nghiệp trên đều có tiềm năng đầu tư sinh lời cao cho nhà đầu tư sau khi Luật Đất đai sửa đổi có hiệu lực. Tuy nhiên, để đạt được lợi nhuận tối ưu cho mình, nhà đầu tư cần có kiến thức pháp lý, hiểu rõ quy hoạch địa phương, có vốn lưu động hợp lý và chiến lược dài hạn. Sự kết hợp giữa hiểu biết pháp luật, nguồn tài chính phù hợp và tầm nhìn xa sẽ giúp nhà đầu tư biến những mảnh đất nông nghiệp thành nguồn lợi nhuận bền vững cho mình.

Thứ Năm, 14 tháng 11, 2024

Lợi Ích và Bất Lợi Khi Mua Đất Nông Nghiệp Vùng Ven

 

Luật sư Nguyễn Hữu Phước – Phuoc & Partners

Trong bối cảnh đô thị hóa nhanh chóng và nhu cầu tìm kiếm một không gian sống thoáng đãng, gần gũi với thiên nhiên, đất nông nghiệp vùng ven các đô thị lớn ngày càng trở thành một lựa chọn hấp dẫn cho nhà đầu tư bất động sản. Không chỉ mang lại lợi ích kinh tế, đất nông nghiệp vùng ven còn là lựa chọn lý tưởng cho những người yêu thích lối sống xanh và gần gũi với thiên nhiên. Tuy nhiên, bên cạnh các ưu điểm, đất nông nghiệp vùng ven cũng tồn tại một số hạn chế. Bài viết dưới đây sẽ phân tích đầy đủ các lợi ích và bất lợi, giúp nhà đầu tư có cái nhìn toàn diện trước khi ra quyết định.



Lợi Ích Của Việc Mua Đất Nông Nghiệp Vùng Ven

Lợi ích đầu tiên và đáng chú ý của đất nông nghiệp vùng ven là tiềm năng tăng giá cao. Khi quá trình đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ và cơ sở hạ tầng phát triển như hiện nay, giá trị của các mảnh đất nông nghiệp ở vùng ven sẽ tăng theo. Bên cạnh đó, so với đất thổ cư vốn có giá thành đang ở mức cao, đất nông nghiệp vùng ven có mức giá thấp hơn nhiều, tạo ra dư địa lớn cho tăng trưởng giá trị. Ví dụ, một mảnh đất nông nghiệp có thể mua với chi phí thấp, nhưng khi khu vực xung quanh phát triển hoặc nếu được quy hoạch thành đất ở, thương mại, giá trị của nó sẽ tăng đột biến, đem lại lợi nhuận lớn cho nhà đầu tư.

Thêm vào đó, với chi phí thấp hơn so với đất thổ cư, việc mua đất nông nghiệp cho phép nhà đầu tư sở hữu diện tích lớn mà không cần dùng quá nhiều vốn của mình hay phải dùng đến đòn bẩy vốn ngân hàng. Điều này đặc biệt có lợi cho những người muốn xây dựng dự án nghỉ dưỡng hoặc canh tác nông nghiệp với quy mô lớn, hoặc chỉ đơn giản là muốn sở hữu tài sản với diện tích lớn mà không phải chi trả mức giá cao.

Một yếu tố nữa cũng khiến đất nông nghiệp vùng ven trở nên hấp dẫn là lợi thế đền bù theo giá thị trường khi có quy hoạch hoặc giải tỏa. Theo quy định mới, đất nông nghiệp khi bị thu hồi sẽ được bồi thường theo giá đất cụ thể tại thời điểm quyết định thu hồi đất theo nguyên tắc phù hợp với giá đất phổ biến trên thị trường thay vì giá Nhà nước như trước đây. Điều này giúp chủ sở hữu đất bảo toàn tài sản và sinh lời từ việc đền bù mà không cần phải chuyển đổi đất, đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tư.

Thuế sử dụng đất gồm thuế sử dụng phi nông nghiệp và thuế sử dụng đất nông nghiệp. Thuế sử dụng đất nông nghiệp lại thấp hơn nhiều so với thuế đất ở, góp phần giúp giảm chi phí duy trì tài sản. Điều này tạo ra một lợi thế tài chính đáng kể, cho phép nhà đầu tư tối ưu hóa chi phí và giữ được lợi nhuận cao hơn trong dài hạn. Ngoài ra, hiện nay với giá trị đất nông nghiệp vùng ven được định giá theo giá thị trường, nhà đầu tư có thể dễ dàng tiếp cận các khoản vay ngân hàng với hạn mức tín dụng cao hơn, hỗ trợ tốt cho người muốn sử dụng đòn bẩy tài chính để mở rộng và phát triển bất động sản của mình.

Một lợi ích quan trọng khác là việc đất nông nghiệp vùng ven được luật mới cho phép sử dụng kết hợp với mục đích thương mại và dịch vụ như xây dựng homestay, farmstay, phát triển du lịch sinh thái, chăn nuôi, trồng cây dược liệu nhằm mục đích khuyến khích người dân giữ đất nông nghiệp để khai thác để gia tăng khả năng sinh lợi từ đất. Tính linh hoạt này không chỉ giúp tối ưu hóa lợi ích của nhà đầu tư mà còn đáp ứng nhu cầu của thị trường một cách nhanh chóng.

Với diện tích lớn, đất nông nghiệp vùng ven còn dễ dàng tách thửa thành nhiều lô nhỏ từ 1.000 m2 trở lên để bán hoặc chia cho con cháu. Điều này giúp gia đình bảo toàn tài sản và dễ dàng chia sẻ quyền sở hữu mà không cần phải bán đi toàn bộ lô đất. Đây thật sự là lựa chọn hấp dẫn cho các gia đình muốn để lại tài sản cho con cái, hoặc để bảo toàn tài sản qua nhiều thế hệ.

Nhu cầu sở hữu đất diện tích lớn để vừa ở, vừa canh tác vườn ao chuồng hoặc tạo dựng cảnh quan là xu hướng phổ biến tại các nước phát triển. Mua đất rộng ở vùng ven sẽ đáp ứng nhu cầu sử dụng linh hoạt đó và sẽ giúp nhà đầu tư duy trì tài sản lâu dài. Đặc biệt, cơ sở hạ tầng vùng ven đang được đầu tư mạnh mẽ trong thời gian gần đây, giúp kết nối thuận tiện với trung tâm thành phố cũng như các khu vực lân cận, sân bay và các điểm du lịch. Nhà đầu tư có thể di chuyển một cách dễ dàng mà không gặp nhiều trở ngại về giao thông như trong các trung tâm đô thị.

Đất nông nghiệp vùng ven cũng có tính linh hoạt trong mục đích sử dụng cao. Nhà đầu tư có thể xây dựng các mô hình kinh doanh homestay, nông sản sạch hoặc các sự kiện ngoài trời. Những hình thức này không chỉ tạo ra nguồn thu nhập thường xuyên và bền vững mà còn làm tăng giá trị sử dụng lâu dài của lô đất. Diện tích đất lớn còn cho phép nhà đầu tư xây dựng các loại nhà tiền chế, nhà container, hay nhà lắp ghép cho gia đình sinh sống với chi phí xây dựng thấp nhưng vẫn đáp ứng đầy đủ tiện ích như vườn cây, ao cá, không gian xanh, không khí trong lành và hàng xóm thân thiện.

Việc sở hữu đất nông nghiệp vùng ven còn giúp nhà đầu tư kết nối bạn bè và mở rộng cơ hội kinh doanh của mình. Nhà đầu tư có thể mời bạn bè từ trung tâm thành phố đến để nghỉ ngơi, thư giãn và tận hưởng không khí trong lành. Đây cũng là cơ hội để tổ chức các buổi giao lưu, gặp gỡ với đối tác hoặc các sự kiện kinh doanh ngoài trời.

Nhà đầu tư còn có thể phát triển nông nghiệp công nghệ cao hoặc trồng cây để bán tín chỉ carbon, vừa tạo thu nhập vừa góp phần bảo vệ môi trường. Hơn nữa, diện tích rộng cũng là điều kiện lý tưởng để lắp đặt hệ thống điện năng lượng mặt trời, giúp tiết kiệm chi phí, giảm tải cho lưới điện quốc gia và thân thiện với môi trường.

Cuối cùng, đất nông nghiệp còn đáp ứng nhu cầu sống tự cung tự cấp, cho phép chủ đầu tư trồng rau sạch, chăn nuôi và tự tạo ra nguồn thực phẩm an toàn cho gia đình, giảm sự phụ thuộc vào thị trường thực phẩm công nghiệp. Đây cũng là tài sản bền vững, ít chịu biến động kinh tế so với các loại tài sản khác, do đó giúp bảo toàn giá trị lâu dài cho nhà đầu tư.

Bất Lợi Của Việc Mua Đất Nông Nghiệp Vùng Ven

Mặc dù có nhiều lợi ích như thế, việc mua đất nông nghiệp vùng ven cũng đi kèm với một số bất lợi nhất định đáng được cân nhắc. Một trong số đó là khó khăn trong việc chuyển đổi mục đích sử dụng. Chuyển đổi đất nông nghiệp thành đất ở hoặc đất thương mại đòi hỏi thủ tục pháp lý khá phức tạp, mất nhiều thời gian và chi phí. Nếu khu vực đó không nằm trong quy hoạch phát triển của đô thị, việc chuyển đổi có thể không thực hiện được.

Ngoài ra, rủi ro về chính sách quy hoạch của chính quyền địa phương cũng là yếu tố cần phải lưu ý đến. Quy hoạch nói chung có thể thay đổi và làm giảm giá trị của đất nông nghiệp vùng ven, khiến nhà đầu tư gặp rủi ro tài chính. Bên cạnh đó, ranh giới đất nông nghiệp đôi khi lại không rõ ràng như đất thổ cư, dẫn đến có thể xảy ra trường hợp chênh lệch giữa diện tích trên giấy tờ và diện tích thật trên thực tế. Điều này có thể xãy ra tranh chấp với các chủ đất lân cận và tốn kém chi phí để xác định lại ranh giới.

Cơ sở hạ tầng của một số khu vực vùng ven còn chưa được hoàn thiện, có thể thiếu các tiện ích như điện, nước, internet, gây trở ngại cho việc sinh hoạt gia đình và phát triển kinh doanh. Giá trị của đất nông nghiệp vùng ven cũng phụ thuộc khá nhiều vào tình hình thị trường bất động sản; nếu thị trường suy giảm, khả năng tăng giá và tính thanh khoản của đất có thể bị ảnh hưởng.

Kết Luận: Ai Nên và Ai Không Nên Đầu Tư Vào Đất Nông Nghiệp Vùng Ven?

Đối với những người có tầm nhìn dài hạn, yêu thích lối sống xanh, hoặc muốn phát triển mô hình kinh doanh sinh thái như farmstay, homestay, hoặc nông trại công nghệ cao, đất nông nghiệp vùng ven sẽ là một lựa chọn lý tưởng cho họ. Đây cũng là cơ hội cho các gia đình muốn sở hữu đất đai để truyền lại cho các thế hệ sau của mình.

Ngược lại, đối với những người mong muốn có lợi nhuận nhanh chóng hoặc không có kinh nghiệm xử lý các thủ tục pháp lý phức tạp thì nên cân nhắc kỹ. Đất nông nghiệp vùng ven không phải là lựa chọn phù hợp cho những ai muốn có thu nhập ổn định hoặc kỳ vọng vào nguồn thu ngắn hạn.

Tóm lại, đầu tư vào đất nông nghiệp vùng ven không chỉ mang lại lợi nhuận tài chính mà còn đáp ứng nhu cầu sống xanh, thoải mái và bền vững. Với sự nghiên cứu kỹ lưỡng và chiến lược đầu tư hợp lý, đây sẽ là mộ trong nhữn kênh đầu tư đáng tin cậy, hứa hẹn nhiều tiềm năng phát triển và sinh lời trong tương lai.

 

Thứ Sáu, 1 tháng 11, 2024

Quyền “Ngắt kết nối” sau giờ làm việc: Kinh nghiệm quốc tế và gợi ý cho Việt Nam

 

QuyềnNgắt kết nốisau giờ làm việc: Kinh nghiệm quốc tế và gợi ý cho Việt Nam

(*) Lại Thị Diệu Thuỳ, Hà Thị Hoài Linh và Luật sư Nguyễn Hữu Phước

Trong bối cảnh công nghệ thông tin đang bùng nổ cùng với xu hướng làm việc trực tuyến đang dần trở nên phổ biến tại các doanh nghiệp, người lao động (NLĐ) dù rời công ty sau giờ làm việc nhưng không thực sự “thoát ly” khỏi công việc. Những hoạt động liên lạc mang tính chất công việc thông qua phương tiện điện tử vẫn tiếp tục diễn ra bên ngoài văn phòng. Trước tình trạng này, một số quốc gia đã ban hành và áp dụng quy định về quyền “ngắt kết nối” sau giờ làm việc nhằm bảo vệ quyền lợi của NLĐ, và ví dụ gần đây nhất là Luật “ngắt kết nối” tại Úc đã chính thức có hiệu lực từ ngày 26/08/2024. Từ thực tế đó, việc có nên ban hành quy định về quyền “ngắt kết nối” của NLĐ tại Việt Nam hay không đang được bàn luận sôi nổi trên các diễn đàn pháp lý.

Quyền “ngắt kết nối” theo pháp luật một số quốc gia

Quyền “ngắt kết nối” được đưa ra trong bối cảnh ranh giới giữa cuộc sống cá nhân và công việc đã bị xoá mờ đáng kể khi xu hướng làm việc trực tuyến, làm việc linh hoạt trở nên phổ biến sau Covid-19 và vấn đề bảo vệ quyền lợi và sức khỏe của NLĐ trở nên cấp thiết. Về cơ bản, quyền “ngắt kết nối” được hiểu là quyền của NLĐ được từ chối thực hiện các hoạt động liên lạc điện tử liên quan đến công việc, chẳng hạn như trả lời email, tin nhắn, hoặc cuộc gọi ngoài giờ làm việc.

Pháp, Ý, Tây Ban Nha, Bỉ và một số quốc gia Châu Âu đã đưa quyền “ngắt kết nối” vào văn bản quy phạm pháp luật để cho phép NLĐ được tắt các thiết bị công việc sau giờ làm việc. Ngoài ra, để đảm bảo tính thực thi, pháp luật các quốc gia như Pháp và Tây Ban Nha còn yêu cầu người sử dụng lao động (NSDLĐ) phải thiết lập chính sách nội bộ, quy định về cách thức sử dụng các công cụ kỹ thuật số của NLĐ để đảm bảo tuân thủ thời gian nghỉ ngơi và thời gian làm việc của NLĐ.

Úc là một trong số ít quốc gia ngoài Liên minh châu Âu và châu Mỹ Latinh công nhận quyền “ngắt kết nối” sau giờ làm việc của NLĐ. Tuy nhiên, nếu có phát sinh tranh chấp, cả NSDLĐ và NLĐ đều có quyền yêu cầu Ủy ban Công bằng Lao động (Fair Work Commission) đánh giá tính hợp lý của việc ngắt kết nối này. Việc đánh giá sẽ dựa trên các tiêu chí như: lý do liên lạc, tần suất và phương thức liên lạc, khoản thù lao mà NLĐ nhận được để làm việc trong thời gian liên lạc ngoài giờ hoặc khi làm thêm giờ, vai trò và trách nhiệm của NLĐ cũng như hoàn cảnh cá nhân của NLĐ (bao gồm trách nhiệm gia đình và chăm sóc con cái).

Để tránh việc lạm dụng quy định về quyền “ngắt kết nối”, một số quốc gia đã hạn chế đối tượng NLĐ được áp dụng quyền “ngắt kết nối”. Tại Ý, quyền “ngắt kết nối” hiện chỉ mới áp dụng đối với NLĐ làm việc linh hoạt theo phương thức kết hợp làm việc tại văn phòng và tại nhà hoặc từ xa. Tại Bỉ, quyền “ngắt kết nối” cũng chỉ áp dụng bắt buộc đối với công chức Nhà nước. Đối với NLĐ tại doanh nghiệp, quyền này chỉ được áp dụng khi có sự thỏa thuận giữa NSDLĐ và NLĐ. Tây Ban Nha thì không hạn chế đối tượng NLĐ được áp dụng quyền “ngắt kết nối”, nhưng NSDLĐ và NLĐ sẽ thoả thuận trong thoả ước lao động tập thể về các trường hợp sẽ không áp dụng quyền “ngắt kết nối” (như trường hợp bất khả kháng hoặc có khả năng gây thiệt hại nghiêm trọng cho NSDLĐ nếu NLĐ không phản hồi ngay lập tức).

Việt Nam có nên ban hành quy định về quyền “ngắt kết nối” không?

Bộ luật Lao động và các văn bản hướng dẫn thi hành hiện chưa có quy định nào trực tiếp về quyền “ngắt kết nối” của NLĐ sau giờ làm việc. Thay vào đó, pháp luật lao động hiện chỉ có những quy định gián tiếp về vấn đề này để đảm bảo quyền được nghỉ ngơi của NLĐ. Cụ thể, NSDLĐ có trách nhiệm quy định rõ ràng về thời giờ làm việc bình thường, thời giờ nghỉ ngơi, làm thêm giờ (nếu có) trong nội quy lao động[1] và NLĐ được hưởng lương làm thêm giờ khi làm việc ngoài thời giờ làm việc bình thường[2].

Mặc dù quy định là vậy, pháp luật lao động hiện vẫn không thể giải quyết được tình trạng NLĐ thường xuyên phải làm thêm giờ một cách không mong muốn mà lại không được trả lương làm thêm giờ do phải theo dõi, phản hồi và đáp ứng các yêu cầu công việc. Điều này ít nhiều có tác động tiêu cực đến sức khỏe, cuộc sống cá nhân của NLĐ, khiến họ không có đủ thời gian để cân bằng giữa cuộc sống và công việc cũng như chăm sóc gia đình.

Trên thực tế, do tính chất công việc gấp và khối lượng công việc lớn nên NLĐ không còn lựa chọn nào khác ngoài việc phải làm thêm giờ. Về nguyên tắc, NSDLĐ chỉ được sử dụng NLĐ làm thêm giờ khi được sự đồng ý của NLĐ về thời gian làm thêm, địa điểm và công việc làm thêm. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy để được trả lương làm thêm giờ, NSDLĐ và NLĐ cần có sự thỏa thuận trước hoặc thông qua chính sách nội bộ của NSDLĐ, và NSDLĐ sẽ căn cứ vào hệ thống chấm công để xác nhận số giờ làm thêm. Nói cách khác, NLĐ trong trường hợp làm thêm giờ một cách “tự nguyện” sẽ không có đủ cơ sở để yêu cầu NSDLĐ thanh toán tiền lương làm thêm giờ. Mặt khác, NLĐ cũng không thể “ngắt kết nối” sau giờ làm việc vì nhiều lý do, như yêu cầu công việc cấp bách, lo ngại về việc bị đánh giá hiệu suất công việc kém.

Dưới góc độ của NSDLĐ, việc “ngắt kết nối” của NLĐ sau giờ làm việc có thể gây ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, tính linh hoạt của công việc, đặc biệt là đối với những NLĐ làm việc trực tiếp với khách hàng và đối tác ở những múi giờ khác nhau hoặc NLĐ làm công việc có tính chất đặc thù như bác sỹ, cứu hộ, cảnh sát phòng cháy chữa cháy. Việc này thậm chí còn có thể khiến cho mối quan hệ lao động giữa NSDLĐ và NLĐ trở nên căng thẳng vì NSDLĐ thường mong muốn NLĐ luôn sẵn sàng xử lý công việc để duy trì hiệu quả kinh doanh.

Từ những phân tích trên, việc xây dưng quy định của pháp luật liên quan đến quyền “ngắt kết nối” là điều cần thiết đối với Việt Nam ở giai đoạn hiện tại. Mặc dù vậy, các quy định về quyền “ngắt kết nối” nên được xây dựng theo hướng sao cho cân bằng lợi ích giữa NSDLĐ và NLĐ, tránh lạm dụng từ NLĐ, gây ảnh hưởng đến kỷ luật lao động và thậm chí là gây thiệt hại cho NSDLĐ.

Một số gợi ý cho Việt Nam

Về đối tượng áp dụng, một số quốc gia cho rằng chỉ nên áp dụng quyền “ngắt kết nối” đối với NLĐ có thời gian làm việc linh hoạt hoặc làm việc từ xa vì họ là những đối tượng có xu hướng bị “làm phiền” bởi tính chất công việc. Tuy nhiên, thực tiễn tại Việt Nam cho thấy hầu hết NLĐ đều nên có quyền “ngắt kết nối”, ngoại trừ một số NLĐ có tính chất công việc hoặc nhiệm vụ đặc thù đòi hỏi NLĐ phải phản hồi nhanh chóng với mọi liên lạc công việc mọi lúc, mọi nơi.

Về ngoại lệ của quyền “ngắt kết nối”, trong một số trường hợp NSDLĐ cần phải liên lạc với NLĐ sau giờ làm việc, việc xâm phạm quyền “ngắt kết nối” có thể xem là hợp lý và được chấp nhận để đảm bảo lợi ích của NSDLĐ. Tuy nhiên, NSDLĐ cần chứng minh rằng việc liên hệ là thực sự cần thiết,  trong một khoảng thời gian hợp lý để giải quyết công việc và việc “ngắt kết nối” của NLĐ có thể gây thiệt hại nghiêm trọng cho NSDLĐ. Bên cạnh đó, NLĐ phải được hưởng lương làm thêm giờ nếu có phát sinh công việc làm thêm giờ như vậy.

Về cơ chế thực thi, để cân bằng giữa quyền lợi của NSDLĐ và NLĐ, các quy định về quyền “ngắt kết nối” của NLĐ có thể được thoả thuận giữa NSDLĐ và NLĐ thông qua thương lượng tập thể. Trong đó, các bên cần đạt được thoả thuận chung về việc cho phép NLĐ không liên lạc hoặc không trả lời liên lạc công việc sau giờ làm việc; các trường hợp được phép liên lạc sau giờ làm việc; loại liên lạc công việc sau giờ làm việc được chấp nhận; đối tượng NLĐ không được áp dụng quyền “ngắt kết nối”, các trường hợp NLĐ được miễn trừ trách nhiệm khi vi phạm quy định về quyền “ngắt kết nối” và trách nhiệm của các bên.

Tóm lại, việc xây dựng và ban hành quy định pháp luật về quyền “ngắt kết nối” của NLĐ là điều cần thiết đối với Việt Nam. Quyền “ngắt kết nối” sẽ củng cố thêm quyền con người, quyền công dân, góp phần nâng cao chất lượng công việc cũng như chất lượng cuộc sống của NLĐ. Tuy nhiên, các nhà làm luật cũng cần lưu ý đến việc đảm bảo cân bằng lợi ích giữa NSDLĐ và NLĐ, tránh việc lạm dụng hoặc vi phạm từ NLĐ.



[1] Chương VII Bộ luật Lao động.

[2] Điều 107 Bộ luật Lao động.

Thứ Năm, 1 tháng 8, 2024

Chuyển đổi số dưới tác động của Luật Giao dịch điện tử 2023

 

Chuyển đổi số dưới tác động của Luật Giao dịch điện tử 2023 

(Lại Thị Diệu Thùy, Vũ Thùy Linh & Luật sư Nguyễn Hữu Phước – Công ty Luật TNHH Phước và Các Cộng Sự)

Ngày 22/06/2023, Luật Giao dịch điện tử (“GDĐT”) 2023 đã được Quốc hội thông qua và chính thức có hiệu lực từ ngày 01/07/2024. Luật GDĐT mới được kỳ vọng sẽ góp phần hoàn thiện hành lang pháp lý và tạo điều kiện đẩy nhanh tiến trình chuyển đổi số, phát triển dịch vụ công trực tuyến, thương mại điện tử, kinh tế số và xã hội số trong tương lai. Dưới đây là một số điểm mới đáng lưu ý của Luật GDĐT.



Mở rộng phạm vi điều chỉnh

Luật GDĐT 2005 (đã hết hiệu lực) loại trừ việc áp dụng GDĐT trong lĩnh vực cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và các bất động sản khác, văn bản về thừa kế, giấy đăng ký kết hôn, quyết định ly hôn, giấy khai sinh, giấy khai tử, hối phiếu và các giấy tờ có giá khác[1]. Đây là rào cản pháp lý cho việc triển khai các dịch vụ công trực tuyến trong các lĩnh vực tư pháp, đất đai, xây dựng và tài chính do những lo ngại về bảo mật, xác thực, bảo đảm an toàn, an ninh mạng đối với những lĩnh vực quan trọng, nhạy cảm và có giá trị cao này.

Tuy nhiên, với sự phát triển vượt bậc của công nghệ, nhận thức, trình độ và kỹ năng của người dùng cũng như mức độ phổ biến của các GDĐT, Luật GDĐT 2023 được mở rộng theo hướng cho phép cá nhân, cơ quan, tổ chức thực hiện GDĐT ở bất kỳ lĩnh vực nào, trừ khi luật khác quy định không được thực hiện GDĐT. Quy định này mang tính linh hoạt, có thể cho phép các lĩnh vực khác nhau với mức độ phát triển nền tảng công nghệ số khác nhau được áp dụng thực hiện GDĐT một cách phù hợp. 

Quy định chi tiết hơn về thông điệp dữ liệu 

Về cơ bản, Luật GDĐT 2023 kế thừa các quy định của Luật GDĐT 2005 liên quan đến giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu. Tuy nhiên, Luật GDĐT 2023 bổ sung thêm hình thức thể hiện của thông điệp dữ liệu từ văn bản giấy bên cạnh các hình thức văn bản điện tử, tài liệu điện tử, chứng thư điện tử, chứng từ điện tử, hợp đồng điện tử, thư điện tử, điện tín, điện báo, fax và hình thức trao đổi dữ liệu điện tử khác và các điều kiện đối với việc chuyển đổi hình thức giữa văn bản giấy và thông điệp dữ liệu. Sự mở rộng về hình thức thể hiện của thông điệp dữ liệu có ý nghĩa rất lớn trong việc làm phong phú thêm nguồn chứng cứ có thể được thu thập trong tố tụng dân sự. Bởi theo Điều 95.3 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, thông điệp dữ liệu điện tử có thể được xem là chứng cứ khi thể hiện dưới hình thức trao đổi dữ liệu điện tử, chứng từ điện tử, thư điện tử, điện tín, điện báo, fax và các hình thức tương tự khác theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử.

Liên quan đến việc chuyển đổi hình thức giữa văn bản giấy và thông điệp dữ liệu, Luật GDĐT 2023 quy định văn bản chuyển đổi phải đảm bảo tính toàn vẹn và tính tham chiếu của văn bản gốc cũng như có dấu xác nhận văn bản đã được chuyển đổi và thông tin của bên thực hiện chuyển đổi. Riêng đối với việc chuyển đổi giấy phép, giấy chứng nhận, chứng chỉ, văn bản xác nhận, văn bản chấp thuận khác do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền phát hành thành thông điệp dữ liệu hoặc chuyển đổi chứng thư điện tử qua văn bản giấy thì ngoài các điều kiện trên, việc chuyển đổi phải được thực hiện thông qua hệ thống chuyển đổi có tích hợp chữ ký số vào văn bản được chuyển đổi[2]. Thực tế hiện nay, việc chuyển đổi hình thức thông tin từ văn bản giấy sang thông điệp dữ liệu chỉ được thực hiện thông qua việc sao chụp bằng điện thoại, chuyển đổi tài liệu hoặc sử dụng máy scan văn bản thành định dạng tập tin PDF. Do đó, sẽ cần có văn bản hướng dẫn có liên quan của Chính phủ về vấn đề này để xác định tính phù hợp và tính tuân thủ quy định của Luật GDĐT 2023. 

Mở đường cho hợp đồng điện tử trong nhiều lĩnh vực và công chứng điện tử

Có thể thấy rằng Luật GDĐT 2005 chỉ quy định chung về việc giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử. Thực tế, hợp đồng điện tử có thể phát sinh trong nhiều lĩnh vực như thương mại, lao động, xây dựng, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, giao thông vận tải, v.v... Tuy nhiên, việc giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử trong các lĩnh vực này đang gặp nhiều thách thức và rào cản pháp lý do thiếu những quy định hướng dẫn liên quan. Do đó, Luật GDĐT 2023 quy định các bộ, ngành sẽ có thẩm quyền ban hành quy định về giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử trong các lĩnh vực tương ứng do mình quản lý[3]. Quy định mới này mở ra khả năng sẽ có các quy định mang tính chất đặc thù trong hoạt động giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử đối với một số lĩnh vực chuyên ngành.

Bên cạnh đó, cùng với sự mở rộng về thông điệp dữ liệu, giao dịch điện tử, hợp đồng điện tử Luật GDĐT 2023 mở đường cho sự ban hành các quy định pháp luật liên quan đến công chứng điện tử trong thời gian tới. Cụ thể, Điều 9.2 Luật GDĐT 2023 quy định trường hợp pháp luật yêu cầu văn bản phải được công chứng, chứng thực thì thông điệp dữ liệu được xem là đáp ứng yêu cầu nếu được công chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật về công chứng; chứng thực. Có thể thấy rằng Luật GDĐT 2023 là cơ sở pháp lý nền tảng mở đường cho việc triển khai công chứng điện tử.

Bổ sung quy định về chữ ký điện tử nước ngoài   

Luật GDĐT 2023 phân loại chữ ký điện tử theo phạm vi sử dụng như sau: (i) chữ ký điện tử chuyên dùng, (ii) chữ ký số công cộng, và (iii) chữ ký số chuyên dùng công vụ. Việc cơ quan, tổ chức, cá nhân sử dụng các hình thức xác nhận khác bằng phương tiện điện tử mà không phải chữ ký điện tử như phân loại trên đây thì phải thực hiện theo quy định của pháp luật khác có liên quan. Như vậy, trừ khi pháp luật có quy định khác, các hình thức xác thực điện tử đang được áp dụng phổ biến hiện nay trong các thủ tục, giao dịch như OTP, SMS, chữ ký scanned, sinh trắc học sẽ không được xem là chữ ký điện tử.

Một điểm khác cũng đáng chú ý của Luật GDĐT 2023 liên quan đến việc bổ sung quy định về công nhận tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký điện tử nước ngoài tại Việt Nam và công nhận chữ ký điện tử và chứng thư chữ ký điện tử nước ngoài tại Việt Nam. Trước đây, Luật GDĐT 2005 không hướng dẫn cụ thể về chữ ký điện tử, chứng thư điện tử nước ngoài, để lại nhiều khoảng trống trong các giao dịch điện tử xuyên biên giới mà chủ thể nước ngoài có nhu cầu sử dụng chữ ký điện tử của nước sở tại. Vì vậy, quy định mới của Luật GDĐT 2023 được đánh giá là tiến bộ hơn và dự kiến sẽ giải quyết được những vướng mắc, hạn chế hiện nay. Các bên tham gia giao dịch điện tử xuyên biên giới có thể giảm thiểu những lo ngại về giá trị pháp lý của giao dịch do được xác thực bằng các chữ ký điện tử được công nhận tại Việt Nam.

Hiện nay, có tất cả 24 tổ chức, doanh nghiệp Việt Nam được cấp phép cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số công cộng và được công bố trên Cổng thông tin điện tử của Trung tâm Chứng thực điện tử quốc gia (NECA) tại địa chỉ https://neac.gov.vn/vi/ca-cong-cong?pageIndex=1. Với những quy định bổ sung của Luật GDĐT 2023, số lượng tổ chức cung cấp dịch vụ này có thể tăng lên đáng kể. Các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân cần lưu ý tham khảo, cập nhật, lựa chọn tổ chức cung cấp dịch vụ được cấp phép phù hợp để hạn chế các rủi ro khi tham gia vào các giao dịch điện tử.

Bổ sung quy định liên quan đến dịch vụ tin cậy 

Theo Luật GDĐT 2023, dịch vụ tin cậy là ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện, bao gồm các dịch vụ: (i) dịch vụ cấp dấu thời gian để gắn thông tin về thời gian vào thông điệp dữ liệu, (ii) dịch vụ chứng thực thông điệp dữ liệu gồm dịch vụ lưu trữ và xác nhận tính toàn vẹn của thông điệp dữ liệu và dịch vụ gửi, nhận thông điệp dữ liệu bảo đảm, và (iii) dịch vụ chứng thực chữ ký số công cộng. Có thể thấy rằng việc bổ sung quy định liên quan đến dịch vụ tin cậy giúp nâng cao tính xác thực định danh điện tử, đảm bảo an toàn, bảo mật, tránh được các rủi ro cho người dùng do rò rỉ thông tin, dữ liệu khi tham gia vào các giao dịch điện tử.

 Kết luận

Có thể thấy rằng Luật GDĐT 2023 sẽ tạo ra hành lang pháp lý để thúc đẩy doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân tham gia vào các giao dịch điện tử. Luật GDĐT 2023 dự kiến sẽ đóng vai trò quan trọng trong quá trình chuyển đổi số, giúp tạo một môi trường điện tử an toàn, pháp lý và phát triển. Đồng thời, luật này được đánh giá sẽ góp phần đảm bảo tính xác thực, tính pháp lý và tính toàn vẹn của các giao dịch, hợp đồng điện tử và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên tham gia.

 

 

 



[1] Điều 1 Luật GDĐT 2005

[2] Điều 12 Luật GDĐT 2023

[3] Điều 34.2 Luật GDĐT 2023

Thứ Tư, 5 tháng 6, 2024

Tiền lương cơ sở sẽ bị xóa sổ và tiền lương tổi thiểu có đang vô hình “bóp nghẹt” doanh nghiệp?


Luật sư Dương Tiếng Thu, Luật sư Lê Lê Thanh Trà & Luật sư Nguyễn Hữu Phước – Công ty luật Phuoc & Partners

Đến hẹn lại lên, hàng năm cứ vào tầm giữa cuối Quý 2, các phương tiện truyền thông và các doanh nghiệp (“DN”) lại có dịp bàn về mức lương cơ sở (“MLCS”) và mức lương tối thiểu (“MLTT”). Ngày 01/7/2024 có thể là cột mốc đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong chính sách tiền lương tại Việt Nam. Chính phủ đã quyết định thực hiện cải cách tiền lương nhằm cải thiện đời sống của người lao động (“NLĐ”) sau nhiều năm tạm hoãn do hệ lụy sau đại dịch Covid-19.

Chính sách cải cách tiền lương


Tại Nghị quyết 104/2023/QH15 về dự toán ngân sách Nhà nước năm 2024 có quy định từ ngày 01/7/2024, thực hiện cải cách tổng thể chính sách tiền lương theo Nghị quyết 27-NQ/TW năm 2018. Nghị quyết 27-NQ/TW thống nhất xây dựng bảng lương mới 2024 theo vị trí việc làm, chức danh và chức vụ lãnh đạo thay thế hệ thống bảng lương hiện hành, chuyển xếp lương cũ sang lương mới, bảo đảm không thấp hơn tiền lương hiện hưởng.[1] Mục tiêu chính của cải cách là đảm bảo MLTT đủ sống, giảm thiểu tình trạng lao động nghèo, và tạo động lực làm việc cho NLĐ. MLTT sẽ được điều chỉnh theo từng vùng kinh tế, phản ánh sự khác biệt về chi phí sinh hoạt giữa các khu vực. Hai nội dung lớn của chính sách cải cách tiền lương áp dụng từ ngày 01/7/2024 bãi bỏ MLCS và tăng MLTT.

Xóa bỏ MLCS và giải pháp nào cho chính phủ và DN

Từ năm 2004 đến 2019,[2] tiền lương cơ sở hằng năm tăng dần đều. Những năm 2020 và 2021 cho đến tháng 6/2023, Chính phủ áp dụng MLCS duy nhất là 1.600.000 đồng do tình hình Việt Nam bị ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19. MLCS từ ngày 1/7/2023 đến nay là 1.8.00.000 đồng. Đối với DN, MLCS được sử dụng để trích các khoản đóng theo quy định, bao gồm tiền lương tối đa để tính bảo hiểm xã hội (“BHXH”), bảo hiểm y tế (“BHYT”) và bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp (“BHTNĐ-BNN”). MLCS cũng được dùng để tính đoàn phí công đoàn và các khoản trợ cấp BHXH, như là trợ cấp một lần khi sinh con, trợ cấp dưỡng sức sau sinh, dưỡng sức sau ốm, trợ cấp mai táng, và trợ cấp tuất hàng tháng.[3] Bộ luật Dân sự 2015 cũng sử dụng MLCS để xác định mức bồi thường thiệt hại tối đa đối với hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín, cụ thể là 10 lần MLCS.[4]


Theo quy định của Luật BHXH 2014 và Luật BHYT, đối với NLĐ đóng BHXH theo chế độ tiền lương do DN quyết định thì tiền lương tháng đóng BHXH là mức lương và phụ cấp lương theo quy định của pháp luật lao động. Tiền lương tính đóng BHXH bắt buộc tối đa bằng 20 lần MLCS, tương ứng với 36.000.000 đồng. Theo Luật An toàn vệ sinh lao động thì DN và NLĐ hằng tháng sẽ đóng tối đa 1% trên quỹ tiền lương làm căn cứ đóng BHXH của NLĐ vào quỹ tại nạn lao động – bệnh nghề nghiệp. Đến ngày 01/7/2024, khi MLCS bị xóa bỏ, về nguyên tắc, Luật BHXH, Luật BHYT, và BLDS sẽ phải thay đổi theo đó và giải pháp cho Chính phủ là sẽ phải thay đổi như thế nào. Các chuyên gia trong các kỳ họp Quốc hội về việc sửa đổi Luật BHXH đề xuất sẽ thay thế MLCS bằng mức tham chiếu đến mức 1.800.000 đồng.

Tác giả cho rằng Luật BHXH có thể được sửa đổi trên cơ sở thống nhất lấy mức tiền lương đóng BHXH tối đa dựa trên MLTT do Chính phủ ban hành để thống nhất toàn bộ với các quy định hướng dẫn hiện nay của BHXH Việt Nam với Luật Việc Làm và các quy định khác trong Luật BXHH đối với nhóm NLĐ làm việc do DN quyết định mức tiền lương.[5] Mức đóng thấp nhất trong BHXH, BHYT, BHTN và BHTNLĐ-BNN là cũng tham chiếu tới MLTT. Song tác giả cho rằng, do MLTT và mức lương cơ sở hiện đang chênh lệnh nhau khá nhiều do hai mục đích xây dựng mức lương là hoàn toàn khác nhau. MLCS là mức lương được xây dựng cho NLĐ làm việc do cơ quan Nhà nước và cơ quan hành chính công quyết định, còn MLTT thì được xây dựng cho NLĐ làm việc tại DN dân doanh. Giải pháp này tốt hơn thống nhất nhưng nên có lộ trình tăng nhất định để DN có đủ thời gian chuẩn bị tài chính và thực hiện theo đó.

Tăng MLTT từ ngày 01/7/2024 và thách thức DN phải đối mặt là gì?

Trong nhiều quốc gia, MLTT thường được đặt ra nhằm bảo vệ quyền lợi của NLĐ và đảm bảo rằng họ có thể đủ sống và nuôi sống gia đình của mình. Ví dụ như tại Hoa Kỳ, MLTT Liên bang là 7.25 USD/giờ, một số tiểu bang có MLTT cao hơn như tại bang California là 16 USD/giờ và Washington là 16.28 USD/giờ[6]. Hay như một quốc gia gần Việt Nam là Thái Lan cũng quy định về MLTT giao động 328 – 354 BAHT/ngày tùy theo vùng.[7]

MLTT ở Việt Nam đang dự kiến sẽ tăng từ ngày 01/7/2204 như sau: Đối với vùng I: 4.960.000 đồng/tháng; Đối với vùng II: 4.410.000 đồng/tháng; Đối với vùng III: 3.860.000 đồng/tháng; và Đối với vùng IV: 3.450.000 đồng/tháng

Thách thức lớn nhất đối với DN khi tăng MLTT là việc tăng chi phí vận hành. MLTT tăng đồng nghĩa với việc DN phải bỏ ra nhiều tiền hơn để trả lương cho NLĐ. Đối với các DN lớn, việc này có thể được cân đối bằng cách cắt giảm các chi phí khác hoặc tăng giá sản phẩm, dịch vụ. Tuy nhiên, đối với các DN vừa và nhỏ, việc này có thể gây ra áp lực tài chính lớn, thậm chí đe dọa đến sự tồn tại của DN. Ví dụ như các DN trong ngành sử dụng nhiều lao động như dệt may, giày da, chế biến thực phẩm. Những DN này thường có nguồn lực hạn chế và biên lợi nhuận thấp, do đó, việc tăng lương sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm.

Khi chi phí nhân công tăng, việc duy trì lợi nhuận trở nên khó khăn hơn. Các DN phải tìm cách cân đối giữa việc trả lương cao hơn và việc duy trì mức lợi nhuận hợp lý. Điều này đặc biệt khó khăn trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng khốc liệt, tình hình suy thoái sinh tế vẫn là mối đe dọa đến DN toàn cầu nói chung và Việt Nam nói riêng, cùng với áp lực giảm giá từ người tiêu dùng. Nhiều DN buộc phải cắt giảm các khoản chi khác như đầu tư vào công nghệ, marketing hoặc thậm chí là cắt giảm nhân sự.

 Việc tăng lương cũng làm ảnh hưởng đến quy trình sản xuất của DN. Để giảm chi phí, DN có thể phải tái cấu trúc lại quy trình làm việc, cắt giảm số lượng nhân viên hoặc đầu tư vào các giải pháp công nghệ thay thế lao động, gây hệ lụy về nạn thất nghiệp.

Khi chi phí vận hành tăng, một số DN có thể buộc phải tăng giá bán sản phẩm và dịch vụ hay giảm tăng lương để duy trì lợi nhuận. Điều này có thể dẫn đến sự phản đối từ phía người tiêu dùng, đặc biệt là trong bối cảnh kinh tế khó khăn. Hơn nữa, việc tăng giá cũng có thể làm giảm tính cạnh tranh của DN trên thị trường, đặc biệt là khi phải cạnh tranh với các sản phẩm, dịch vụ giá rẻ từ nước ngoài.

Ngoài việc phải trả lương cao hơn, DN còn phải đối mặt với áp lực từ các chính sách thuế và BHXH. Khi mức lương tăng, các khoản đóng BHXH, BHYT và các loại thuế liên quan cũng tăng theo. Điều này làm tăng gánh nặng tài chính cho DN, đặc biệt là trong bối cảnh kinh tế chưa ổn định.

Khuyến nghị giải pháp thích ứng cho DN

Một trong những giải pháp để cân bằng lợi ích giữa NLĐ và DNlà áp dụng chính sách lương linh hoạt. Thay vì tăng lương đồng loạt, Chính phủ có thể điều chỉnh MLTT dựa trên từng ngành, nghề và khu vực kinh tế cụ thể. Điều này giúp giảm áp lực tài chính cho các DN trong các ngành, nghề có lợi nhuận thấp hoặc trong các khu vực kinh tế khó khăn.

Chính phủ cũng có thể triển khai các chương trình hỗ trợ DN vừa và nhỏ, giúp họ vượt qua khó khăn khi chi phí lao động tăng cao. Các chương trình này có thể bao gồm các gói vay ưu đãi, hỗ trợ về thuế hoặc các khóa đào tạo nâng cao năng lực quản lý và công nghệ. Đầu tư vào công nghệ là một trong những giải pháp hiệu quả để giảm chi phí lao động và nâng cao hiệu quả sản xuất. Điều này không chỉ giúp DN giảm bớt gánh nặng tài chính mà còn nâng cao năng lực cạnh tranh của họ trên thị trường, và tạo ra một lực lượng lao động có kỹ năng cao hơn

Đối thoại thường xuyên giữa Chính phủ, DN và NLĐ là cần thiết để tìm ra các giải pháp hài hòa lợi ích. Các bên có thể cùng nhau thảo luận, đánh giá tác động của các chính sách và đưa ra các điều chỉnh kịp thời. Điều này giúp đảm bảo rằng chính sách tiền lương không chỉ mang lại lợi ích cho NLĐ mà còn phù hợp với khả năng của DN.

Kết Luận

Cải cách tiền lương là một yếu tố quan trọng trong việc nâng cao chất lượng cuộc sống của NLĐ và thúc đẩy sự phát triển kinh tế bền vững. Trước thềm áp dụng chính sách cải cách tiền lương vào ngày 01/7/2024, các DN Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều thách thức Tuy nhiên, bằng cách triển khai các giải pháp thích hợp và nhận được sự hỗ trợ kịp thời từ Chính phủ, DN hoàn toàn có thể vượt qua khó khăn và phát triển mạnh mẽ hơn. Chính sách cải cách tiền lương không chỉ là bài toán về tài chính, mà còn là cơ hội để DN tái cấu trúc, nâng cao năng suất và cải thiện sức cạnh tranh trong bối cảnh kinh tế toàn cầu ngày càng biến động.

Thực hiện chính sách cải cách tiền lương, Chính phủ cũng cần cân nhắc để tạo ra một môi trường kinh doanh ổn định, linh hoạt và hỗ trợ DN nhằm cân bằng lợi ích giữa NLĐ và DN. Chỉ khi có sự hài hòa giữa lợi ích của hai bên, chúng ta mới có thể đạt được mục tiêu phát triển kinh tế toàn diện và bền vững, góp phần xây dựng một xã hội công bằng và thịnh vượng.



[2] https://baohiemxahoidientu.vn/bhxh/muc-luong-co-so-qua-cac-nam.

Nghị định 203/2004/NĐ-CP, từ 01/10/2004 đến hết tháng 9/2005, lương cơ sở là 290.000 đồng/tháng

Nghị định 118/2005/NĐ-CP, từ 01/10/2005 đến hết tháng 9/2006, lương cơ sở là 350.000 đồng/tháng

Nghị định 94/2006/NĐ-CP, từ 01/10/2006 đến hết tháng 12/2007, lương cơ sở là 450.000 đồng/tháng

Nghị định 166/2007/NĐ-CP, từ 01/01/2008 đến hết tháng 4/2008, lương cơ sở là 5400.000 đồng/tháng

Nghị định 33/2009/NĐ-CP, từ 01/05/2009 đến hết tháng 4/2009, lương cơ sở là 650.000 đồng/tháng

Nghị định 28/2010/NĐ-CP, từ 01/05/2010 đến hết tháng 4/2011, lương cơ sở là 730.000 đồng/tháng

Nghị định 22/2011/NĐ-CP, từ 01/05/2011 đến hết tháng 4/2012, lương cơ sở là 830.000 đồng/tháng

Nghị định 31/2012/NĐ-CP, từ 01/05/2012 đến hết tháng 6/2013, lương cơ sở là 1.050.000 đồng/tháng

Nghị định 66/2013/NĐ-CP, từ 01/07/2013 đến hết tháng 4/2016, lương cơ sở là 1.150.000 đồng/tháng

Nghị định 47/2016/NĐ-CP, từ 01/05/2016 đến hết tháng 6/2017, lương cơ sở là 1.210.000 đồng/tháng

Nghị định 47/2017/NĐ-CP, từ 01/07/2017 đến hết tháng 6/2018, lương cơ sở là 1.300.000 đồng/tháng

Nghị định 72/2018/NĐ-CP, từ 01/07/2018 đến hết tháng 6/2019, lương cơ sở là 1.390.000 đồng/tháng

Nghị quyết 70/2018/QH14, kể từ 01/07/2019, lương cơ sở là 1.490.000 đồng/tháng

Nghị quyết 69/2022/QH15, kể từ ngày 01/07/2023, lương cơ sở là 1.800 000 triệu đồng/tháng

[3] https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn/luong-huu-tro-cap-bhxh-muc-dong-bhyt-se-duoc-dieu-chinh-the-nao-khi-cai-cach-tien-luong.

Luật BHXH - Điều 38. Trợ cấp một lần khi sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi

“Lao động nữ sinh con hoặc người lao động nhận nuôi con nuôi dưới 06 tháng tuổi thì được trợ cấp một lần cho mỗi con bằng 02 lần mức lương cơ sở tại tháng lao động nữ sinh con hoặc tháng người lao động nhận nuôi con nuôi.

Trường hợp sinh con nhưng chỉ có cha tham gia bảo hiểm xã hội thì cha được trợ cấp một lần bằng 02 lần mức lương cơ sở tại tháng sinh con cho mỗi con.”

Luật BHXH - Điều 66. Trợ cấp mai táng

“…

2. Trợ cấp mai táng bằng 10 lần mức lương cơ sở tại tháng mà người quy định tại khoản 1 Điều này chết.”

 

Luạt BHXH - Điều 68. Mức trợ cấp tuất hằng tháng

“1. Mức trợ cấp tuất hằng tháng đối với mỗi thân nhân bằng 50% mức lương cơ sở; trường hợp thân nhân không có người trực tiếp nuôi dưỡng thì mức trợ cấp tuất hằng tháng bằng 70% mức lương cơ sở.”

[4] BLDS 2015 - Điều 592. Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm

“…

2. Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm không quá mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định”

[5] BHXH TP.HCM – Công văn 1952/BHXH-TST hướng dẫn thu BHXH, BHYT, BHTN, BH TNLĐ-BNN; quản lý sổ BHXH, thẻ BHYT

“Mục 3.2 Tiền lương do đơn vị quyết định

d) Mức tiền lương tháng đóng BHXH, BHYT, BHTN bắt buộc không thấp hơn mức lương tối thiểu vùng tại thời điểm đóng đối với người lao động làm công việc hoặc chức danh giản đơn nhất trong điều kiện lao động bình thường.”

Làm Sao Để Thưởng Tết 2025 Được Tính Vào Chi Phí Hợp Lý? Bí Quyết Doanh Nghiệp Không Thể Bỏ Qua!

Luật sư Nguyễn Hữu Phước - Công ty luật Phuoc & Partners Tết Và Tập Tục “Thưởng Tết” hay "Tháng Lương Thứ 13" Tết đến xuân...