Thứ Hai, 24 tháng 11, 2025

Rào cản hay van an toàn? Thiết kế lại vai trò công chứng trong hệ sinh thái giao dịch điện tử

 

Rào cản hay van an toàn? Thiết kế lại vai trò công chứng trong hệ sinh thái giao dịch điện tử

(Luật sư Nguyễn Hữu Phước – Công ty luật Phuoc & Partners)

Từ động thái chính sách mới nhất, Bộ Công an đã đưa vào dự thảo Nghị quyết Chính phủ về đơn giản hóa thủ tục hành chính phương án bỏ yêu cầu công chứng (CC) và xác nhận tình trạng hôn nhân đối với giao dịch nhà đất trong trường hợp dữ liệu đã được số hóa, làm sạch và liên thông; hợp đồng giao dịch có thể ký số qua VNeID mức 2 và có giá trị pháp lý như CC, nhưng người dân vẫn có quyền chọn CC nếu muốn. Mục tiêu là giảm giấy tờ trùng lặp, giảm chi phí và thời gian, hạn chế phí bôi trơn phát sinh từ việc tiếp xúc trực tiếp và dịch chuyển trục bảo đảm an toàn từ con dấu giấy sang hạ tầng định danh, dữ liệu và truy vết điện tử. Tuy nhiên, với bất động sản, lĩnh vực có giá trị lớn và rủi ro tích tụ cao, nhiều ý kiến khuyến nghị cần có lộ trình thận trọng để tránh khoảng trống an toàn khi lớp kiểm soát con người được thay bằng kiểm soát dữ liệu; đặc biệt việc giao dịch “tặng cho” có thể mở ra kẽ hở lách thuế nếu thiếu bộ lọc rủi ro và cơ chế hậu kiểm hiệu quả. Câu hỏi chính ở đây vì thế không còn là bỏ hay giữ CC, mà là thiết kế vai trò của CC ở đâu trong hệ sinh thái số để vừa cắt giảm chi phí và hạn chế tham nhũng vặt, lại vừa giữ kỷ luật an toàn giao dịch ở mức có thể đo đếm và chịu trách nhiệm.

Tranh luận nóng lên bởi nó chạm đến hai điều rất đắt là chi phí - thời gian của người dân và độ an toàn của tài sản lớn. Theo đó, dự thảo nhấn mạnh nguyên tắc “không yêu cầu người dân nộp lại những gì Nhà nước đã có”, chuyển khâu đối chiếu từ bộ hồ sơ giấy sang đối soát dữ liệu ở nhiều cơ sở dữ liệu (CSDL) đã chuẩn hóa và liên thông: dân cư, hộ tịch, đất đai, đăng ký giao dịch bảo đảm; hợp đồng điện tử được ký bằng chữ ký số hoặc tài khoản định danh VNeID mức 2, có giá trị pháp lý tương đương với CC; người dân vẫn có quyền lựa chọn CC nếu muốn “gia cố” thêm lớp an toàn cho mình. Điểm mới không chỉ là tiện lợi, mà còn là dấu vết số – nhật ký hệ thống giúp truy vết và chịu trách nhiệm tốt hơn.



Dẫu vậy, bất động sản là phân khúc rủi ro tích tụ cao, nên cắt bỏ ngay CC dễ tạo khoảng trống. Có ba mối lo chính: Thứ nhất, CC viên hiện đóng vai chốt chặn kiểm tra năng lực chủ thể, tình trạng pháp lý tài sản, cảnh báo điều khoản bất thường; nếu dữ liệu chưa sạch hoặc thuật toán cảnh báo chưa hoàn thiện, lớp an toàn này có thể bị mỏng đi. Thứ hai, cơ chế giá – thuế và thực tiễn khai hai giá hiện nay có thể khiến việc chuyển nhượng đội lốt tặng cho nhằm giảm nghĩa vụ tài chính nảy sinh nếu không có bộ lọc rủi ro và hậu kiểm thuế. Thứ ba, năng lực chuẩn hóa và liên thông dữ liệu giữa dân cư, hộ tịch, đất đai, đăng ký giao dịch bảo đảm… còn chưa đồng đều, dễ kéo theo tranh chấp do sai lệch. Chính vì vậy, nhiều ý kiến đề nghị phải có lộ trình và thí điểm phạm vi hẹp trước khi mở rộng.

Nhìn từ góc độ lợi ích và chi phí thì hướng cải cách được cho là có cơ sở. Bất kỳ ai từng đi xin xác nhận tình trạng hôn nhân, CC hợp đồng chuyển nhượng rồi vòng vèo qua cơ quan thuế rồi đăng ký biến động tài sản đều hiểu cái giá của quy trình giấy tờ chồng chéo: thời gian, chi phí chính thức lẫn không chính thức, rủi ro mất mát hồ sơ và sự phụ thuộc vào thiện chí của từng khâu. Nếu dữ liệu đã được làm sạch và định danh – ký số đạt mức tin cậy cao, nhiều bước kiểm tra có thể chuyển sang tự động: hệ thống đối chiếu nhân thân và hôn nhân, soi quyền sử dụng đất và tình trạng thế chấp và tranh chấp, chấm điểm rủi ro để cảnh báo; hợp đồng điện tử được ký số để hình thành nhật ký bất biến; người dân chỉ cần đến CC khi rủi ro vượt ngưỡng.

Tuy nhiên, thiên về cải cách không đồng nghĩa là thả phanh. Cải cách tốt phải đi kèm với van an toàn. Thứ nhất, phân loại giao dịch theo rủi ro: nhóm đơn giản (một thửa – một chủ, đất ở đô thị có sổ, không thế chấp, không tranh chấp) có thể sớm đi luồng “không bắt buộc CC”; nhóm phức tạp (đồng sở hữu, tài sản gắn liền với đất, tài sản hình thành trong tương lai, ủy quyền toàn phần, tài sản đang bị ngăn chặn) nên tiếp tục bắt buộc CC giai đoạn đầu. Thứ hai, xây “CC viên số”: thuật toán chấm điểm rủi ro dựa trên đối chiếu đa CSDL; hễ phát hiện bất tương thích (tình trạng hôn nhân sai lệch, tín hiệu thế chấp chưa cập nhật, lịch sử tranh chấp…) thì tự động chuyển sang luồng bắt buộc CC. Thứ ba, bắt buộc thanh toán qua ngân hàng, khai đúng giá trị giao dịch để cơ quan thuế đối chiếu với cơ sở giá và dữ liệu thị trường; “tặng cho” giữa các chủ thể không thân thích hoặc có dấu hiệu bất thường về giá cần gắn cờ để hậu kiểm thuế, chống rửa tiền.

Hai điều kiện nền tảng quyết định thành bại là dữ liệu sạch và trách nhiệm rõ ràng. Dữ liệu sạch đòi hỏi chuẩn hóa mã số định danh thửa đất; đồng bộ hộ tịch (kết hôn, ly hôn, khai tử), trạng thái hạn chế giao dịch, thế chấp, kê biên; các hệ thống này sẽ giao tiếp với nhau qua giao diện lập trình ứng dụng được thiết kế theo một bộ quy tắc thống nhất, cập nhật theo thời gian gần thực. Trách nhiệm rõ ràng ở đây là xác lập cơ quan đầu và cuối chịu trách nhiệm với giao dịch không CC (thiết kế quy trình, vận hành hệ thống, tiếp nhận – xử lý khiếu nại). Cổng thông tin Chính phủ vì vậy nhấn mạnh “cần lộ trình để tránh rủi ro”, tức phải có bước đi tuần tự, đánh giá tác động và điều chỉnh kịp thời.

Ở bình diện thị trường, bỏ “cửa ải bắt buộc” còn tạo cạnh tranh lành mạnh cho chính nghề CC. Khi CC trở thành lựa chọn theo nhu cầu để tránh rủi ro, các tổ chức hành nghề CC sẽ phải nâng cao chất lượng tư vấn, minh bạch phí, tối ưu trải nghiệm, đóng vai “gia cố an toàn” thực sự thay vì chỉ là “trạm dừng kỹ thuật”. Phần kiểm tra tính chân thực – nhất quán của dữ liệu nên do hạ tầng số đảm nhận, vì chỉ có hạ tầng số mới đảm bảo tốc độ và quy mô sàng lọc mà giao dịch hiện đại đòi hỏi. Nhà nước cũng nên mở chuẩn kết nối để khu vực tư nhân (nền tảng pháp lý, ngân hàng, bảo hiểm trách nhiệm) tham gia cung cấp dịch vụ giá trị gia tăng như bảo hiểm rủi ro hợp đồng điện tử, chấm điểm tín nhiệm, tra cứu lịch sử tài sản. Những mảnh ghép này, nếu vận hành tốt, vừa kéo chi phí xuống, vừa nâng an toàn lên mức có thể đo đếm được.

Câu hỏi đặt ra là nếu ký số – định danh đã đủ mạnh, thì còn cần CC làm gì? câu trả lời đơn giản: vì đời sống pháp lý luôn có ngoại lệ và độ trễ. Dữ liệu sạch đến mấy cũng có khả năng được cập nhật chậm; công nghệ mạnh đến mấy cũng cần quy tắc vận hành và biện pháp xử lý ngoại lệ. Những giao dịch vượt “đường ray” như định đoạt tài sản của người hạn chế năng lực, tài sản đang bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, chuỗi ủy quyền nhiều tầng vẫn cần cặp mắt người để đọc rủi ro. Tỷ lệ các ca này không lớn, nên giữ CC còn lại là hợp lý.

Tuy nhiên, một hiểu lầm cần gỡ bỏ đó lá việc bỏ bắt buộc CC không phải là thả nổi pháp lý; trái lại, nó đòi hỏi kỷ luật dữ liệu và trách nhiệm cao hơn. Hợp đồng điện tử ký số/VNeID mức 2, kèm nhật ký hệ thống bất biến, giúp Nhà nước và tòa án truy vết giao dịch nhanh và chuẩn. Quy trình điện tử được mô tả cho thấy các điểm kiểm tra chính đã có: đăng nhập và khai báo, xác thực nhân thân – hôn nhân – quyền tài sản, ký số, đăng ký biến động. Kinh nghiệm thí điểm sang tên phương tiện giao thông qua VNeID ở TP.HCM gần đây đã nhận được phản hồi tích cực về giảm thủ tục và thời gian; bài học này có thể đưa sang mảng nhà đất với điều kiện tiên quyết là dữ liệu đất đai phải sạch và liên thông tương đương dữ liệu dân cư – hộ tịch.

Trong giai đoạn chuyển tiếp, rủi ro lớn nhất là tranh chấp do sai lệch dữ liệu (ghi nhầm tình trạng hôn nhân, bỏ sót thế chấp…). Cần có cơ chế bồi hoàn và bảo hiểm trách nhiệm Nhà nước khi lỗi thuần túy thuộc về hạ tầng dữ liệu; song song đó là quy trình khóa giao dịch khẩn cấp khi có tín hiệu gian lận hoặc lỗi hệ thống để chặn chuỗi chuyển dịch tài sản. Yếu tố con người cũng quan trọng theo hướng phải đào tạo người dân và cán bộ về quy trình điện tử, cách đọc cảnh báo rủi ro, cách dùng ký số. Một hệ thống tốt đến đâu cũng có thể thất bại nếu người dùng thao tác sai hoặc không tin tưởng.

Tóm lại, nên hay không nên bỏ CC trong giao dịch bất động sản? Nên nhưng cần theo lộ trình, với điều kiện là dữ liệu phải sạch, định danh – ký số mạnh, cơ chế chấm điểm rủi ro tự động và thanh toán qua ngân hàng để khép kẽ hở thuế, phí; nên nhưng vẫn giữ CC bắt buộc cho các trường hợp có rủi ro cao và bảo lưu quyền người dân được CC khi thấy cần. Nếu các điều kiện trên được thiết kế đúng và vận hành nghiêm túc, cải cách này không chỉ cắt giảm chi phí và hạn chế tham nhũng vặt, mà còn nâng chuẩn an toàn giao dịch lên một nấc mới đó là minh bạch hơn, truy vết tốt hơn, đáng tin hơn. Khi ấy, CC không phải biến mất mà chuyển vai từ rào cản bắt buộc thành dịch vụ gia cố an toàn trong một hệ sinh thái số hóa có kỷ luật.

Bài viết này của tôi được viết trên cơ sở dựa trên những kiến thức pháp luật mà tôi đã được học cũng như những kinh nghiệm chuyên môn trong nhiều năm qua. Nếu bạn thấy những thông tin chia sẻ của tôi ở trên là hữu ích, xin hãy ủng hộ tôi bằng một cú click chuột vào website này nhé www.phuoc-partner.com. Cám ơn bạn rất nhiều.

 

Chủ Nhật, 16 tháng 11, 2025

Chậm một phiên tòa, đắt một bản án

 

Chậm một phiên tòa, đắt một bản án

(Luật sư Nguyễn Hữu Phước – Phó chủ tịch VNHR) 

Trong mọi nền tư pháp, công lý không chỉ được đo bằng phán quyết đúng của tòa án mà còn bằng thời điểm nó được tuyên. Một bản án đúng nhưng đến quá muộn, trong nhiều trường hợp, chẳng khác nào một bản án sai. Trong lĩnh vực lao động, nơi mối quan hệ giữa doanh nghiệp (DN) và người lao động (NLĐ) vốn mong manh và nhạy cảm, sự chậm trễ của tòa án không chỉ làm hao mòn niềm tin vào pháp luật mà còn khiến DN trở thành người phải trả “lãi” cho sự trì trệ của hệ thống.

Theo Điều 41 Bộ luật Lao động 2019, nếu DN đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật, họ phải nhận NLĐ trở lại làm việc, trả lương, đóng các loại bảo hiểm bắt buộc cho thời gian NLĐ không được làm việc và bồi thường ít nhất 2 tháng tiền lương theo hợp đồng. Nếu NLĐ không muốn quay lại, họ được quyền nhận thêm trợ cấp thôi việc cùng tiền lương và phúc lợi tính từ ngày bị chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật đến khi có phán quyết chung cuộc của tòa án. Mục tiêu của quy định này là đảm bảo người yếu thế không bị thiệt thòi, nhưng khi áp dụng trong thực tế, nó lại trở thành một “đồng hồ bồi thường” chạy không ngừng – mà người điều khiển kim đồng hồ không phải DN, mà chính là hệ thống tố tụng.


Một vụ án lao động, nếu được giải quyết đúng tiến độ theo Điều 203 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015, chỉ nên kéo dài khoảng sáu đến bảy tháng. Nhưng trong thực tế, nhiều vụ kéo dài từ một đến hai năm, thậm chí hơn. Mỗi ngày chậm trễ, khoản bồi thường mà DN phải trả tăng thêm. Ví dụ, một NLĐ lương 25–30 triệu đồng/tháng, nếu vụ án kéo dài hai năm, số tiền DN phải chi trả có thể vượt nửa tỷ đồng, chưa kể  các loại bảo hiểm và các khoản phúc lợi khác. Điều trớ trêu là trong suốt thời gian đó, NLĐ không làm việc, thậm chí có thể đã làm cho nơi khác nhưng nếu DN không chứng minh được, họ vẫn phải trả toàn bộ khoản lương “ngồi chờ”.

Nguyên nhân của sự chậm trễ đó không chỉ đến từ thói quen hành chính, năng lực xét xử của thẩm phán hay các vụ án có tính chất phức tạp cần xác minh điều tra, mà còn từ những yếu tố khách quan của hệ thống tư pháp trong những năm gần đây. Giai đoạn dịch Covid-19 khiến nhiều phiên tòa phải hoãn, lùi lịch, hoặc xử gián đoạn. Hàng loạt vụ án tồn đọng kéo sang năm sau. Sau đó, khi các địa phương tiến hành sáp nhập quận, huyện, xã, phường và triển khai mô hình tòa án hai cấp (tỉnh và huyện hoặc xã), hàng nghìn hồ sơ phải điều chuyển, phân lại thẩm quyền, thay đổi con dấu và bộ máy. Quá trình tái cơ cấu bộ máy này, dù cần thiết cho cải cách tư pháp, lại khiến tiến độ giải quyết án lao động chậm thêm đáng kể. Nhiều tòa phải ưu tiên án hình sự, dân sự tài sản lớn, còn án lao động – vốn thường giá trị nhỏ hơn – bị dồn lại sau.

Song, lượng án lao động vẫn tiếp tục tăng nhanh. Ngoài nguyên nhân từ sự phát triển kinh tế và thị trường lao động gần đây, còn có các yếu tố pháp lý làm “bùng nổ” kiện tụng. Thứ nhất, theo điểm a khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, NLĐ không phải nộp án phí khi khởi kiện về sa thải hoặc đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật, dù họ thắng hay thua. Trong khi đó, DN, nếu thua, không chỉ phải bồi thường cho NLĐ như trên mà còn gánh toàn bộ chi phí tố tụng và thuê luật sư, còn nếu thắng thì cũng không thể yêu cầu NLĐ hoàn trả lại chi phí luật sư mà mình đã bỏ ra. Cơ chế này khiến việc đi kiện gần như “rủi ro thấp, lợi nhuận cao” đối với NLĐ.

Thứ hai, theo khoản 3 Điều 190 Bộ luật Lao động 2019, thời hiệu khởi kiện vụ án lao động là một năm kể từ kể từ thời điểm phát hiện hành vi mà NLĐ cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm. Nhiều NLĐ chủ ý chọn cách chờ đến gần hết thời hiệu mới nộp đơn, vừa để kéo dài thời gian thương lượng, vừa để tăng khoảng thời gian được tính lương “không làm mà vẫn có tiền”. Khi đó, tòa chỉ bắt đầu thụ lý vào tháng cuối của thời hiệu, trong khi thời điểm tính bồi thường lại quay ngược về ngày bị đơn phương chấm dứt hay sa thải. Ví dụ, một vụ việc xảy ra đầu năm 2023, đến cuối 2024 mới nộp đơn và năm 2026 mới có bản án chung cuộc, DN có thể phải trả lương ba năm liền cho quãng thời gian NLĐ không hề làm việc.

Thứ ba, theo Điều 4 của Nghị định số 65/2013/NĐ-CP, tiền bồi thường NLĐ nhận được theo bản án có hiệu lực lại được xem là thu nhập từ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo quy định của Bộ luật dân sự được miễn thuế thu nhập cá nhân. Dù đây là chính sách nhân văn, nhưng vô hình trung tạo ra một “động lực tài chính” cho việc khởi kiện. Cùng với đó, thực tế cũng xuất hiện tình trạng NLĐ dù đã thắng phần lớn yêu cầu của mình ở cấp sơ thẩm vẫn cố tình kháng cáo, không hẳn để thay đổi phán quyết, mà để kéo dài thời gian tranh tụng và tiếp tục được tính lương “ngồi chờ” đến khi bản án phúc thẩm có hiệu lực. Vì pháp luật không giới hạn lý do kháng cáo, tòa phúc thẩm vẫn phải thụ lý và lịch xét xử có thể kéo dài thêm cả năm, làm chi phí của DN tăng gấp đôi gấp ba chưa kể thời gian bỏ ra mà không bên nào chịu trách nhiệm.

Ở góc độ tòa án, nhiều thẩm phán thừa nhận thực tế họ đang thực sự quá tải. Số lượng án mới tăng nhanh nhưng nhân sự lại không tăng tương ứng. Tòa án nhân dân hai cấp ở nhiều địa phương vẫn vận hành trong điều kiện còn thiếu thẩm phán chuyên trách lao động, thiếu thư ký và cơ sở vật chất. Sau khi sáp nhập đơn vị hành chính, một thẩm phán có thể phải kiêm nhiệm nhiều loại án, dẫn đến việc ưu tiên xử án hình sự, dân sự trước, còn án lao động thường bị “gác lại”. Trong khi đó, dù quy định nội bộ ngành tòa có cơ chế chế tài cá nhân thẩm phán nếu để nhiều vụ án quá hạn nhưng thực tế vẫn thường xảy ra tình trạng này vì nhiều nguyên nhân khác nhau như trên. Kết quả là, các vụ việc lao động thường bị kéo dài không vì lý do pháp lý mà đơn thuần vì… không ai chịu trách nhiệm cụ thể cho sự chậm trễ ấy.

Hệ quả là DN phải trả giá cho những yếu tố ngoài tầm kiểm soát. Trong một hệ thống mà công lý di chuyển chậm, DN trở thành “ngân hàng” vô tình tài trợ cho lỗi của bộ máy. Mỗi tháng trôi qua, số tiền bồi thường tăng thêm như lãi suất cộng dồn. Nếu nhìn sâu hơn, đây không chỉ là gánh nặng tài chính mà còn là một thông điệp ngược đó là người chấp hành luật lại chịu thiệt hơn người chờ đợi.

Cần nói rõ, không ai phản đối việc bảo vệ NLĐ – đó là giá trị cốt lõi của luật lao động. Nhưng công bằng phải đến từ hai chiều. Khi một bên có thể khởi kiện muộn, được miễn án phí, miễn thuế cho khoản bồi thường, không phải chịu trách nhiệm về chi phí tố tụng, và còn có thể kéo dài vụ án để gia tăng lợi ích nếu muốn, thì hệ thống đã lệch. Và khi tòa án chậm trễ không vì lỗi của DN nhưng DN vẫn phải trả giá, thì công lý ấy đã giàm bớt ý nghĩa trong thực tế.

Đã đến lúc cần những giải pháp mạnh mẽ hơn. Thứ nhất, nên giới hạn thời điểm tính tiền lương và phúc lợi “ngồi chờ” chỉ đến ngày tòa án mở phiên sơ thẩm đầu tiên hoặc chậm nhất là khi hết thời hạn chuẩn bị xét xử theo luật. Nếu sau đó tòa chưa xử vì lý do khách quan, phần thời gian kéo dài đó không nên được tính vào nghĩa vụ bồi thường của DN.

Thứ hai, cần thiết lập cơ chế ký quỹ tạm thời tại tòa án như các nước tiên tiến thường làm, theo đó DN có thể nộp trước một khoản tương đương ví dụ sáu tháng tiền lương để đảm bảo quyền lợi NLĐ. Khi vụ án kết thúc, nếu NLĐ thắng kiện thì nhận được số tiền đó; nếu thua thì số tiền được hoàn trả lại cho DN. Cách này giúp cân bằng lợi ích, tránh việc DN  bị cộng dồn chi phí trong thời gian tố tụng kéo dài.

Thứ ba, phải tăng trách nhiệm của thẩm phán và cơ quan xét xử. Việc chậm ra quyết định đưa vụ án ra xét xử hoặc không mở phiên tòa đúng hạn cần được xem là vi phạm kỷ luật nghề nghiệp, có ảnh hưởng lớn đến đánh giá thi đua hoặc bổ nhiệm lại. Bên cạnh đó, Tòa án nhân dân tối cao nên có cơ chế thống kê chính thức, công khai thời gian trung bình giải quyết án lao động ở từng địa phương, xem đó như một chỉ số đánh giá hiệu quả hoạt động tư pháp.

Thứ tư, nên xem xét lại chính sách án phí và thuế. NLĐ chỉ nên được miễn án phí ở cấp sơ thẩm cho các vụ việc đơn phương chấm dứt hay sa thải, còn nếu kháng cáo mà yêu cầu không được chấp nhận thì nên chịu một phần án phí tượng trưng hoặc hoàn trả một phần chi phí hợp lý cho DN. Đồng thời, cần quy định rõ việc miễn thuế thu nhập cá nhân chỉ áp dụng cho phần bồi thường thực tế nhằm bù đắp thiệt hại, không áp dụng cho phần vượt trội do thời gian kéo dài.

Một hệ thống pháp luật công bằng là hệ thống mà cả DN và NLĐ đều cảm thấy được lắng nghe và bảo vệ. Khi DN bị buộc phải chi hàng trăm triệu đồng cho một vụ án kéo dài không vì lỗi của mình, thì đó không còn là bảo vệ người yếu thế mà là sự bất cân xứng trong việc phân bổ gánh nặng pháp lý. Và khi sự bất cân xứng ấy kéo dài, nó không chỉ làm DN giảm niềm tin vào công lý, mà còn khiến họ dè dặt hơn trong việc tạo ra việc làm – điều mà cuối cùng lại gây thiệt cho chính NLĐ.

 Bài viết này của tôi được viết trên cơ sở dựa trên những kiến thức pháp luật mà tôi đã được học cũng như những kinh nghiệm chuyên môn trong nhiều năm qua. Nếu bạn thấy những thông tin chia sẻ của tôi ở trên là hữu ích, xin hãy ủng hộ tôi bằng một cú click chuột vào website này nhé www.phuoc-partner.com. Cám ơn bạn rất nhiều.

Thứ Sáu, 7 tháng 11, 2025

Công ty luật Việt Nam có thể lớn lên như Thánh Gióng?

 

Công ty luật Việt Nam có thể lớn lên như Thánh Gióng?

(Luật sư Nguyễn Hữu Phước – Công ty luật Phuoc & Partners)

Trong truyền thuyết dân gian, Thánh Gióng từ một đứa trẻ ba tuổi bỗng vươn vai thành tráng sĩ, cưỡi ngựa sắt, cầm roi sắt đánh tan giặc ngoại xâm. Đó là hình tượng bất tử về sự trỗi dậy thần kỳ, về khả năng biến điều tưởng chừng bất khả thi thành hiện thực. Nếu soi chiếu vào ngành dịch vụ pháp lý Việt Nam hôm nay, hình ảnh ấy trở thành phép ẩn dụ đầy gợi mở. Từ những văn phòng nhỏ bé, manh mún, thiếu vốn và công nghệ, liệu các công ty luật Việt Nam có thể vươn mình trở thành “chiến binh pháp lý” ngang tầm khu vực và quốc tế, đồng hành cùng sự phát triển đất nước trong kỷ nguyên toàn cầu hóa?

Câu hỏi này càng trở nên cấp thiết khi nền kinh tế vào một giai đoạn tăng trưởng mới. Năm 2025, tốc độ tăng trưởng dự kiến đạt trên 8%, và những năm tiếp theo có thể duy trì mức hai con số. Nếu thế, đến năm 2045 Việt Nam sẽ trở thành quốc gia phát triển. Nhưng tăng trưởng kinh tế luôn đi kèm với phức tạp về pháp lý. Khi doanh nghiệp Việt Nam tiến sâu vào các lĩnh vực công nghệ cao, năng lượng sạch, thương mại số, tham gia các thương vụ M&A xuyên biên giới, khi các dự án đầu tư nước ngoài ngày càng lớn, thì những tranh chấp pháp lý quốc tế lớn sẽ xuất hiện. Nếu thiếu công ty luật Việt Nam đủ mạnh, lợi ích quốc gia và doanh nghiệp Việt Nam khó lòng được bảo toàn, và khi ấy, chúng ta buộc phải phụ thuộc vào công ty luật ngoại quốc.

Kinh nghiệm quốc tế chỉ rõ mối quan hệ song hành giữa sự cất cánh của nền kinh tế và sự trưởng thành của ngành dịch vụ pháp lý. Hàn Quốc, từ một đất nước nghèo sau chiến tranh, đã dựng lên công ty luật Kim & Chang năm 1973, hiện có hơn 1.500 luật sư (LS), trở thành Big Law hàng đầu châu Á và là đối tác pháp lý chiến lược của Samsung, Hyundai, LG. Singapore, từ một “ốc đảo nghèo” với GDP bình quân chỉ hơn 300 USD những năm 1960, đã cho ra đời Rajah & Tann và Allen & Gledhill, những công ty luật chi phối thị trường nội địa và dẫn dắt toàn ASEAN, gắn liền với việc Singapore vươn lên thành trung tâm tài chính – trọng tài quốc tế. Nhật Bản, từ đống tro tàn sau Thế chiến 2, đã hình thành Nishimura & Asahi, Nagashima Ohno & Tsunematsu, trở thành những công ty luật đồng hành cùng Toyota, Sony, Mitsubishi bước ra thế giới.



Điểm chung của những thành công ấy là công ty luật đã đồng hành cùng doanh nghiệp dân tộc, lớn lên cùng các tập đoàn kinh tế trụ cột. Họ biết quốc tế hóa nhân sự, đưa LS ra nước ngoài học tập, tuyển dụng nhân sự đa quốc tịch, để tạo ra đội ngũ nắm vững luật bản địa lại và am hiểu pháp luật quốc tế. Họ biết chọn mũi nhọn chiến lược, như Singapore tập trung vào trọng tài, Hàn Quốc mạnh về sở hữu trí tuệ và chống độc quyền, Nhật Bản chuyên sâu vào M&A và thị trường vốn. Họ cũng biết mở chi nhánh quốc tế, hiện diện ở nơi dòng vốn và tranh chấp diễn ra, từ New York, London, Hong Kong đến Singapore, Tokyo. Và quan trọng nhất, họ có cơ chế vốn để phát triển bằng việc cho phép huy động vốn từ thị trường, nhận đầu tư từ quỹ, để có tiềm lực mở rộng và đầu tư công nghệ.

Trong khi đó, hơn 90% các công ty luật Việt Nam chỉ vài LS, hoạt động như văn phòng gia đình hoặc nhóm nhỏ, thiếu chuyên môn hóa, phòng ban tiếp thị, bộ phận quản trị rủi ro. Với quy mô ấy, họ khó cạnh tranh ngay cả ở thị trường nội địa, chưa nói tới quốc tế. Quản trị cũng còn lạc hậu. LS sáng lập thường vừa hành nghề vừa điều hành, lợi nhuận chia ngay trong năm, không có tích lũy để tái đầu tư. Cơ chế LS thành viên thiếu minh bạch, thiếu mô hình quản trị chuyên nghiệp. Nghiêm trọng hơn, Luật LS Việt Nam không cho phép công ty luật chuyển đổi thành công ty cổ phần, dẫn đến họ không thể niêm yết trên thị trường chứng khoán để huy động vốn một cách công khai. Luật cũng cấm người không phải là LS góp vốn, khiến công ty luật không thể nhận đầu tư từ quỹ đầu tư hoặc hợp tác chiến lược. Đây là rào cản chí mạng vì công ty luật chỉ có thể sống bằng lợi nhuận nội bộ, vốn dĩ ít ỏi. Với cơ chế vốn như vậy, gần như không thể hình thành một “Big Law Việt Nam”.

Ngoài rào cản vốn và quản trị, còn một rào cản mềm nhưng nặng nề đó là tâm lý vùng miền. Việt Nam có ba miền Bắc – Trung – Nam, với những khác biệt về lịch sử, văn hóa và phong cách hành nghề. LS ở Hà Nội thường mạnh về tranh tụng, chính sách, tư vấn cho doanh nghiệp Nhà nước và dự án chính quyền. LS TP.HCM lại thiên về thương mại, FDI, thị trường vốn, tư vấn doanh nghiệp tư nhân. Miền Trung, đặc biệt Đà Nẵng, tập trung vào hạ tầng, du lịch, bất động sản, cảng biển. Thay vì hợp tác để bổ sung thế mạnh, các công ty luật ba miền lại thường phát triển riêng rẽ. Tâm lý vùng miền khiến việc sáp nhập gặp khó. công ty luật miền Bắc khó chấp nhận hòa nhập với phong cách phóng khoáng miền Nam. công ty luật miền Trung quy mô nhỏ, nhưng lo mất bản sắc khi nhập vào hãng lớn. Kết quả là thị trường bị chia nhỏ, manh mún, không hình thành được “siêu hãng luật” đủ sức cạnh tranh quốc tế.

Để khắc phục tình trạng này, Nhà nước cần có chính sách khuyến khích sáp nhập, như ưu đãi thuế cho công ty luật hợp nhất, hỗ trợ tín dụng để xây dựng hệ thống quản trị mới, hoặc cho phép thương hiệu kép trong giai đoạn chuyển tiếp. Nhưng quan trọng hơn cả là thay đổi tư duy theo hướng chỉ khi hợp nhất, công ty luật Việt Nam mới đủ sức trở thành Big Law, còn nếu cứ giữ tâm lý vùng miền thì mãi chỉ là “LS làng” trên thị trường toàn cầu.

Trong bối cảnh ấy, vai trò của Nhà nước trở nên quyết định. Dịch vụ pháp lý cần được xem là hạ tầng mềm thiết yếu của quốc gia, ngang với năng lượng, tài chính, hậu cần. Cần có ưu đãi thuế cho công ty luật khi họ chi cho đào tạo, công nghệ, mở chi nhánh quốc tế. Cần có tín dụng ưu đãi thông qua quỹ bảo lãnh pháp lý quốc gia, để công ty luật có thể vay vốn không cần thế chấp, dựa trên hợp đồng dịch vụ và doanh thu tương lai. Cần có cải cách pháp lý, mở dần cơ chế cho phép nhà đầu tư ngoài ngành như quỹ đầu tư góp vốn có giới hạn, hoặc một mô hình công ty luật đại chúng có giám sát, để công ty luật có thể tham gia thị trường vốn như các ngành khác. Nếu không tháo gỡ nút thắt này, các công ty luật Việt Nam sẽ mãi nhỏ bé, không đủ tiềm lực để vươn ra quốc tế.

Nhưng vốn và chính sách chưa đủ. Trong thế kỷ 21, công nghệ và trí tuệ nhân tạo chính là “ngựa sắt” và “roi sắt” của ngành luật. Trên thế giới, Clio, ROSS Intelligence, Relativity, Contract Express, LawNet, eLitigation đã làm thay đổi căn bản nghề luật. Trong khi đó, công ty luật Việt Nam vẫn quản lý hồ sơ bằng Word, Excel, Google Drive, hoặc những App tra cứu sơ khai. Khoảng cách ấy có thể rút ngắn nếu Việt Nam xây dựng hệ sinh thái Legal Tech bản địa theo hướng ứng dụng quản lý vụ việc, soạn thảo hợp đồng tự động, tra cứu án lệ bằng AI, tố tụng điện tử, bảo mật dữ liệu đạt chuẩn quốc tế. Khi ấy, một công ty luật Việt Nam chỉ vài chục LS cũng có thể làm khối lượng công việc ngang với công ty luật ngoại hàng trăm nhân viên.

AI còn mang đến một cú bứt phá mang tính lịch sử đó là phá vỡ rào cản ngôn ngữ. Từ trước đến nay, tiếng Anh là bức tường vô hình ngăn LS Việt Nam tham gia sâu vào sân chơi quốc tế. Dù có nhiều người giỏi ngoại ngữ, nhưng số LS có thể hành nghề trực tiếp bằng tiếng Anh vẫn hiếm. Nhờ AI dịch thuật thế hệ mới, ngôn ngữ pháp lý có thể được xử lý gần như tức thì và chuẩn xác. Một LS Việt Nam chỉ cần giỏi luật nội địa, AI sẽ hỗ trợ phần ngôn ngữ. Nhờ đó, thay vì mất hàng chục năm đào tạo đội ngũ LS song ngữ như Hàn Quốc, Nhật Bản từng làm, Việt Nam có thể rút ngắn lộ trình chỉ trong vài năm. Đây chính là lợi thế vàng để công ty luật Việt Nam đi tắt - đón đầu, tham gia ngay vào các vụ tranh chấp trọng tài, thương vụ M&A quốc tế, thay vì phải “nhường sân” cho hãng ngoại.

Cùng với AI, một chiến lược khác là mở chi nhánh quốc tế và tham gia trung tâm tài chính trong nước. Các công ty luật Việt Nam phải hiện diện tại Singapore để kết nối ASEAN, tại Tokyo và Seoul để theo sát dòng vốn Đông Bắc Á, tại Paris, London, Washington để xử lý tranh chấp quốc tế. Đồng thời, phải hiện diện mạnh mẽ trong trung tâm tài chính TP.HCM và Đà Nẵng, nơi nhu cầu pháp lý về ngân hàng, chứng khoán, fintech, trọng tài sẽ bùng nổ. Nếu bỏ qua, thị trường ấy sẽ hoàn toàn thuộc về các công ty luật ngoại.

Hãy hình dung một lộ trình. Giai đoạn 2025–2030, khi kinh tế tăng trưởng trên 8% rồi duy trì hai con số, các công ty luật Việt Nam sẽ sáp nhập để tạo quy mô, đầu tư vào công nghệ, đào tạo LS trẻ, hiện diện trong các trung tâm tài chính trong nước. Giai đoạn 2030–2035, với chính sách ưu đãi thuế, tín dụng, cải cách vốn, họ mở chi nhánh tại Singapore, Tokyo, Seoul, Paris, New York, tham gia các bảng xếp hạng Chambers Asia, Legal 500. Đến 2035–2045, khi đất nước trở thành quốc gia phát triển, Việt Nam sẽ có một vài Big Law đủ sức cạnh tranh với Kim & Chang, Rajah & Tann, Nishimura & Asahi, bảo vệ doanh nghiệp Việt trong mọi tranh chấp quốc tế, và xuất khẩu dịch vụ pháp lý như một ngành công nghiệp mũi nhọn.

Nếu Thánh Gióng lớn nhanh nhờ cơm gạo dân làng và ngựa sắt vua ban, công ty luật Việt Nam hôm nay cũng cần được nuôi dưỡng bằng tri thức, chính sách thuế – tín dụng, cải cách pháp lý để huy động vốn, và công nghệ AI. Khi vượt qua rào cản vốn, quản trị, tâm lý vùng miền, và biết tận dụng AI để phá bỏ rào cản ngôn ngữ, những văn phòng nhỏ bé hôm nay hoàn toàn có thể vươn vai trở thành chiến binh pháp lý hùng mạnh. Đến năm 2045, khi Việt Nam trở thành quốc gia phát triển, chúng ta không chỉ có các tập đoàn toàn cầu, mà còn có những Big Law Việt Nam, đủ sức bảo vệ lợi ích quốc gia trên mọi diễn đàn quốc tế.

Bài viết này của tôi được viết trên cơ sở dựa trên những kiến thức pháp luật mà tôi đã được học cũng như những kinh nghiệm chuyên môn trong nhiều năm qua. Nếu bạn thấy những thông tin chia sẻ của tôi ở trên là hữu ích, xin hãy ủng hộ tôi bằng một cú click chuột vào website này nhé www.phuoc-partner.com. Cám ơn bạn rất nhiều.

Rào cản hay van an toàn? Thiết kế lại vai trò công chứng trong hệ sinh thái giao dịch điện tử

  Rào cản hay van an toàn? Thiết kế lại vai trò công chứng trong hệ sinh thái giao dịch điện tử (Luật sư Nguyễn Hữu Phước – Công ty luật P...