Dưới tác động tiêu cực của khủng hoảng và suy thoái kinh tế, nhiều doanh nghiệp hiện cố gắng tìm mọi cách để giảm thiểu tối đa các chi phí phát sinh, trong đó có thể kể đến việc chậm đóng hoặc đóng không đủ, thậm chí là phớt lờ nghĩa vụ đóng bảo hiểm xã hội (“BHXH”) cho người lao động. Vụ việc gần đây nhất tại tỉnh Phú Yên, khi một doanh nghiệp bị khởi tố hình sự do hành vi trốn đóng BHXH, đã dấy lên hồi chuông cảnh báo để các doanh nghiệp phải xem lại mức độ tuân thủ của mình đối với các quy định pháp luật về BHXH.
Thực trạng xử lý hình sự đối với hành vi trốn đóng BHXH
Tính đến nay, chưa có bất kỳ bản án hay quyết định nào của Tòa án các cấp xử lý doanh nghiệp về tội danh “trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động” theo Bộ luật Hình sự[1]. Bên cạnh đó, cũng chưa có hướng dẫn chi tiết nào của Tòa án Nhân dân Tối cao về vấn đề này. Ngày 01/03/2024, có thể nói Công ty TNHH TMSX Thuận Thông là trường hợp đầu tiên bị khởi tố hình sự về tội danh này. Mặc dù đã từng bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chậm đóng, doanh nghiệp này vẫn không khắc phục sai phạm mà còn tiếp tục trốn đóng 3 loại bảo hiểm này cho người lao động (“NLĐ”) với tổng số tiền gần 424 triệu đồng.
Việc không đóng đủ, đóng chậm hoặc thậm chí là trốn đóng BHXH có thể là do doanh nghiệp cố tình không tuân thủ quy định để cắt giảm chi phí khi gặp khó khăn. Hiện nay, mức đóng BHXH bắt buộc cho mỗi NLĐ lên đến 32% mức lương đóng BHXH của NLĐ, trong đó doanh nghiệp phải đóng là 21,5% và trích từ tiền lương của NLĐ là 10,5%. Dù pháp luật lao động hiện hành có quy định mức lương tháng tối đa làm căn cứ đóng BHXH bắt buộc nhưng có thể thấy rằng đây vẫn là một khoản chi đáng kể đối với doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp khối ngành sản xuất với số lượng lên đến hàng trăm NLĐ. Bên cạnh đó, việc theo dõi quá trình đóng BHXH cho NLĐ có thể là gánh nặng đối với doanh nghiệp, dẫn đến suy nghĩ của chủ doanh nghiệp có thể cắt bớt phần chi phí này để tối đa hóa lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Trong một số trường hợp, tình trạng trên xảy ra có thể do sự thiếu cập nhật của doanh nghiệp về quy định của pháp luật có liên quan, hoặc ỷ y như trước và chưa lường trước được hậu quả pháp lý nghiêm trọng. Hiện nay, hệ thống các văn bản pháp luật liên quan đến nghĩa vụ của doanh nghiệp trong việc đóng BHXH cho NLĐ được quy định khá đồ sộ và liên tục được cập nhật, điều chỉnh theo từng thời kỳ, gồm Luật Bảo hiểm xã hội 2014 và nhiều văn bản pháp quy hướng dẫn có liên quan. Tuy nhiên, việc quy định rải rác tại nhiều văn bản vô hình trung dẫn đến nhiều bất cập, khó khăn cho doanh nghiệp khi áp dụng. Đặc biệt với nhiều doanh nghiệp chưa có bộ phận nhân sự, pháp lý nội bộ có chuyên môn, kinh nghiệm trong lĩnh vực này, doanh nghiệp có thể không kịp thời cập nhật các quy định ví dụ như đối tượng nào phải tham gia BHXH, các loại bảo hiểm bắt buộc và mức đóng bảo hiểm. Mặt khác, nhiều doanh nghiệp còn có ý chí chủ quan, xem nhẹ hậu quả của việc trốn đóng BHXH vì nghĩ rằng nhiều lắm thì “chỉ” bị xử phạt hành chính và mức phạt thấp hơn nhiều so với lợi ích thu được từ việc trốn đóng BHXH.
Khi nào doanh nghiệp bị khởi tố hình sự?
Trốn đóng BHXH được hiểu là người sử dụng lao động có nghĩa vụ đóng BHXH cho NLĐ thuộc đối tượng phải tham gia BHXH nhưng lại dùng thủ đoạn gian dối hoặc bằng những thủ đoạn khác để không đóng hoặc đóng không đầy đủ các khoản BHXH cho NLĐ. Chủ thể của tội phạm là pháp nhân thương mại (“PNTM”) có trách nhiệm thu, đóng tiền BHXH cho NLĐ. PNTM sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự (“TNHS”) với tội trốn đóng BHXH khi: (i) gian dối hoặc bằng thủ đoạn khác không đóng hoặc đóng đầy đủ từ 06 tháng trở lên, và (ii) đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trốn đóng từ 50 triệu đến 300 triệu hoặc trốn đóng từ 10 NLĐ đến dưới 50 NLĐ. Đối với các trường hợp trốn đóng BHXH từ 02 lần trở lên, hoặc từ 300 triệu đồng trở lên, hoặc từ 50 NLĐ trở lên thì doanh nghiệp có thể bị xử lý hình sự mà không xét đến việc có bị xử phạt vi phạm hành chính trước đó hay chưa[2].
Dưới góc độ pháp luật lao động, người sử dụng lao động bao gồm nhiều tổ chức khác nhau[3], tuy nhiên, theo pháp luật hình sự, chỉ những doanh nghiệp là PNTM mới chịu TNHS. Dù pháp luật hiện hành chưa có định nghĩa chính thức, nhưng dựa vào các quy định pháp luật liên quan, PNTM có thể hiểu là tổ chức có tư cách pháp nhân[4] và có mục tiêu hoạt động chính là tìm kiếm lợi nhuận. PNTM chỉ phải chịu TNHS khi hành vi vi phạm của họ có đầy đủ các yếu tố sau: (1) hành vi phạm tội được thực hiện nhân danh PNTM, vì lợi ích của PNTM, và có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận của PNTM; và (2) chưa hết thời hiệu truy cứu TNHS[5].
Hiện nay, pháp luật chưa có quy định về việc người đại diện theo pháp luật (“NĐDTPL”) của PNTM sẽ chịu trách nhiệm khi PNTM bị khởi tố TNHS, cũng như chưa có quy định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trốn đóng BHXH đối với NĐDTPL. Dù vậy, cần lưu ý rằng việc PNTM phạm tội sẽ không loại trừ TNHS của cá nhân[6]. Thực chất, NĐDTPL có mối quan hệ rất chặt chẽ đối với pháp nhân, vì họ đại diện cho PNTM để thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch của PNTM đó[7]. Tuy quy định trách nhiệm cá nhân của NĐDTPL trong việc trốn đóng BHXH vẫn chưa được xác định rõ ràng, nhưng theo nguyên tắc tránh bỏ lọt tội phạm, tác giả không loại trừ khả năng NĐDTPL vẫn có thể bị truy cứu TNHS nếu trực tiếp tham gia thực hiện hành vi phạm tội, bao gồm cả hành vi trốn đóng BHXH.
Tại sao đến thời điểm hiện tại mới có doanh nghiệp bị khởi tố?
Trên thực tế, việc vi phạm nghĩa vụ đóng BHXH đã và đang xảy ra tại rất nhiều doanh nghiệp với mức độ vi phạm khác nhau. Song, trên thực tế việc điều tra, khởi tố của cơ quan điều tra gặp nhiều khó khăn vì một số lý do như:
(i) - pháp luật chưa có hướng dẫn cụ thể về một số yếu tố cấu thành hành vi phạm tội, như “dấu hiệu gian dối”, hoặc “bằng thủ đoạn khác”, dẫn đến khó khăn khi xác định hành vi phạm tội; và
(ii) - khó phân biệt hành vi trốn đóng với hành vi không đóng, hay chậm đóng vì lý do khách quan nên cơ quan BHXH có thẩm quyền chưa có cơ sở xác định hành vi trốn đóng BHXH để có cơ sở xử phạt vi phạm hành chính – một trong những dấu hiệu để xem xét truy cứu TNHS.
Về phía NLĐ, thực tế cho thấy trong nhiều trường hợp NLĐ dù biết rõ quyền lợi BHXH của mình không được doanh nghiệp đảm bảo nhưng vẫn “ngậm ngùi” chấp nhận vì nhiều lý do khác nhau, như chưa nhận ra tầm quan trọng của việc tham gia BHXH, hoặc sợ tranh chấp với doanh nghiệp sẽ dẫn đến khó khăn trong quá trình làm việc của mình.
Hậu quả pháp lý của việc trốn đóng BHXH
Doanh nghiệp thực hiện hành vi trốn đóng BHXH có thể phải chịu các rủi ro
pháp lý như bị xử phạt hành chính với
mức phạt từ 100 đến 150 triệu đồng và bị buộc trả tiền lãi bằng 02 mức lãi suất
đầu tư quỹ BHXH bình quân của năm trước liền kề tính trên số tiền, thời gian chậm
đóng[8]. Ở lĩnh vực hình sự, nếu bị khởi tố, doanh nghiệp có bị phạt tiền từ 200 triệu đồng đến 3 tỷ đồng.
Bên cạnh đó, NLĐ còn có thể khởi kiện doanh nghiệp tại Tòa án có thẩm quyền
liên quan để yêu cầu doanh nghiệp truy đóng đầy đủ các khoản BHXH cho NLĐ theo
quy định của pháp luật. Thủ tục này có thể được giải quyết tại Tòa án có thẩm
quyền mà không cần thông qua thủ tục hòa giải tranh chấp lao động tại hòa giải
viên lao động như một số tranh chấp lao động khác[9].
Kết luận
Sự việc nói trên cho thấy các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đã và đang trong quá trình phối hợp, thanh tra, kiểm tra việc tuân thủ của doanh nghiệp với nghĩa vụ tham gia BHXH theo quy định. Vì vậy, doanh nghiệp cần nhanh chóng rà soát và khắc phục sai sót, nếu có, để đảm bảo thực hiện đúng quy định của pháp luật.
Ngoài ra, cá nhân NLĐ cũng nên quan tâm nhiều hơn đến quyền lợi lao động của mình, đặc biệt trong vấn đề BHXH. Hiện nay, NLĐ có thể dễ dàng kiểm tra chi tiết quá trình tham gia BHXH bắt buộc của mình thông qua ứng dụng VSSID của cơ quan BHXH. Ngay khi nhận thấy quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm, NLĐ có thể thực hiện các biện pháp pháp lý phù hợp để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Sắp tới đây, các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trong lĩnh vực BHXH chắc hẳn sẽ tăng cường rà soát, giải quyết những bất cập trong việc xử lý hành chính, hình sự trong lĩnh vực BHXH. Điều này sẽ góp phần nâng cao ý thức chấp hành của doanh nghiệp, bảo đảm quyền lợi của NLĐ và tạo tiền đề cho việc giải quyết các trường hợp trốn đóng BHXH của doanh nghiệp.
[1] Điều 216 Bộ luật Hình sự 2015
[2] Điều 216.1 và
216.2 Bộ luật Hình sự 2015
[3] Điều 3.2 Bộ
luật Lao động 2019
[4] Điều 74 Bộ luật
Dân sự 2015
[5] Điều 75 Bộ luật
Hình sự 2015
[6] Khoản 2 Điều
75 Bộ luật Hình sự 2015
[7] Điều 12 Luật
Doanh nghiệp 2020
[8] Điều 39.7(a), Điều 6.1 Nghị định
12/2022/NĐ-CP và Điều 122 Luật BHXH 2014
[9] Điều 188.1(d) Bộ luật Lao động 2019