Luật sư Dương Tiếng Thu, Luật sư Lê Lê Thanh Trà & Luật sư Nguyễn Hữu Phước – Công ty luật Phuoc & Partners
Đến hẹn lại lên, hàng năm cứ vào tầm giữa cuối Quý 2, các phương tiện truyền thông và các doanh nghiệp (“DN”) lại có dịp bàn về mức lương cơ sở (“MLCS”) và mức lương tối thiểu (“MLTT”). Ngày 01/7/2024 có thể là cột mốc đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong chính sách tiền lương tại Việt Nam. Chính phủ đã quyết định thực hiện cải cách tiền lương nhằm cải thiện đời sống của người lao động (“NLĐ”) sau nhiều năm tạm hoãn do hệ lụy sau đại dịch Covid-19.
Chính sách cải cách tiền lương
Tại Nghị quyết 104/2023/QH15 về dự toán ngân sách Nhà nước năm 2024 có quy định từ ngày 01/7/2024, thực hiện cải cách tổng thể chính sách tiền lương theo Nghị quyết 27-NQ/TW năm 2018. Nghị quyết 27-NQ/TW thống nhất xây dựng bảng lương mới 2024 theo vị trí việc làm, chức danh và chức vụ lãnh đạo thay thế hệ thống bảng lương hiện hành, chuyển xếp lương cũ sang lương mới, bảo đảm không thấp hơn tiền lương hiện hưởng.[1] Mục tiêu chính của cải cách là đảm bảo MLTT đủ sống, giảm thiểu tình trạng lao động nghèo, và tạo động lực làm việc cho NLĐ. MLTT sẽ được điều chỉnh theo từng vùng kinh tế, phản ánh sự khác biệt về chi phí sinh hoạt giữa các khu vực. Hai nội dung lớn của chính sách cải cách tiền lương áp dụng từ ngày 01/7/2024 bãi bỏ MLCS và tăng MLTT.
Xóa bỏ MLCS và giải pháp nào cho chính phủ và DN
Từ
năm 2004 đến 2019,[2]
tiền lương cơ sở hằng năm tăng dần đều. Những năm 2020 và 2021 cho đến tháng 6/2023,
Chính phủ áp dụng MLCS duy nhất là 1.600.000 đồng do tình hình Việt Nam bị ảnh
hưởng bởi đại dịch Covid-19. MLCS từ ngày 1/7/2023 đến nay là 1.8.00.000 đồng. Đối
với DN, MLCS được sử dụng để trích các khoản đóng theo quy định, bao gồm tiền
lương tối đa để tính bảo hiểm xã hội (“BHXH”), bảo hiểm y tế (“BHYT”) và bảo hiểm
tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp (“BHTNĐ-BNN”). MLCS cũng được dùng để tính đoàn
phí công đoàn và các khoản trợ cấp BHXH, như là trợ cấp một lần khi sinh con,
trợ cấp dưỡng sức sau sinh, dưỡng sức sau ốm, trợ cấp mai táng, và trợ cấp tuất
hàng tháng.[3]
Bộ luật Dân sự 2015 cũng sử dụng MLCS để xác định mức bồi thường thiệt hại tối
đa đối với hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín, cụ thể là 10 lần MLCS.[4]
Theo quy định của Luật BHXH 2014 và Luật BHYT, đối với NLĐ đóng BHXH theo chế độ tiền lương do DN quyết định thì tiền lương tháng đóng BHXH là mức lương và phụ cấp lương theo quy định của pháp luật lao động. Tiền lương tính đóng BHXH bắt buộc tối đa bằng 20 lần MLCS, tương ứng với 36.000.000 đồng. Theo Luật An toàn vệ sinh lao động thì DN và NLĐ hằng tháng sẽ đóng tối đa 1% trên quỹ tiền lương làm căn cứ đóng BHXH của NLĐ vào quỹ tại nạn lao động – bệnh nghề nghiệp. Đến ngày 01/7/2024, khi MLCS bị xóa bỏ, về nguyên tắc, Luật BHXH, Luật BHYT, và BLDS sẽ phải thay đổi theo đó và giải pháp cho Chính phủ là sẽ phải thay đổi như thế nào. Các chuyên gia trong các kỳ họp Quốc hội về việc sửa đổi Luật BHXH đề xuất sẽ thay thế MLCS bằng mức tham chiếu đến mức 1.800.000 đồng.
Tác giả cho rằng Luật BHXH có thể được sửa đổi trên cơ sở thống nhất lấy
mức tiền lương đóng BHXH tối đa dựa trên MLTT do Chính phủ ban hành để thống
nhất toàn bộ với các quy định hướng dẫn hiện nay của BHXH Việt Nam với Luật
Việc Làm và các quy định khác trong Luật BXHH đối với nhóm NLĐ làm việc do DN
quyết định mức tiền lương.[5] Mức
đóng thấp nhất trong BHXH, BHYT, BHTN và BHTNLĐ-BNN là cũng tham chiếu tới MLTT.
Song tác giả cho rằng, do MLTT và mức lương cơ sở hiện đang chênh lệnh nhau khá
nhiều do hai mục đích xây dựng mức lương là hoàn toàn khác nhau. MLCS là mức
lương được xây dựng cho NLĐ làm việc do cơ quan Nhà nước và cơ quan hành chính
công quyết định, còn MLTT thì được xây dựng cho NLĐ làm việc tại DN dân doanh.
Giải pháp này tốt hơn thống nhất nhưng nên có lộ trình tăng nhất định để DN có
đủ thời gian chuẩn bị tài chính và thực hiện theo đó.
Tăng MLTT từ ngày 01/7/2024 và thách thức DN phải đối mặt là gì?
Trong
nhiều quốc gia, MLTT thường được đặt ra nhằm bảo vệ quyền lợi của NLĐ và đảm bảo
rằng họ có thể đủ sống và nuôi sống gia đình của mình. Ví dụ như tại Hoa Kỳ, MLTT
Liên bang là 7.25 USD/giờ, một số tiểu bang có MLTT cao hơn như tại bang
California là 16 USD/giờ và Washington là 16.28 USD/giờ[6]. Hay như một quốc gia gần
Việt Nam là Thái Lan cũng quy định về MLTT giao động 328 – 354 BAHT/ngày tùy
theo vùng.[7]
MLTT ở Việt Nam đang dự kiến sẽ tăng từ
ngày 01/7/2204 như sau: Đối với vùng I: 4.960.000 đồng/tháng; Đối với vùng II: 4.410.000
đồng/tháng; Đối với vùng III: 3.860.000 đồng/tháng; và Đối với vùng IV:
3.450.000 đồng/tháng
Thách thức lớn nhất đối với DN khi tăng MLTT là việc tăng chi phí vận hành. MLTT tăng đồng nghĩa với việc DN phải bỏ ra nhiều tiền hơn để trả lương cho NLĐ. Đối với các DN lớn, việc này có thể được cân đối bằng cách cắt giảm các chi phí khác hoặc tăng giá sản phẩm, dịch vụ. Tuy nhiên, đối với các DN vừa và nhỏ, việc này có thể gây ra áp lực tài chính lớn, thậm chí đe dọa đến sự tồn tại của DN. Ví dụ như các DN trong ngành sử dụng nhiều lao động như dệt may, giày da, chế biến thực phẩm. Những DN này thường có nguồn lực hạn chế và biên lợi nhuận thấp, do đó, việc tăng lương sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm.
Khi
chi phí nhân công tăng, việc duy trì lợi nhuận trở nên khó khăn hơn. Các DN phải
tìm cách cân đối giữa việc trả lương cao hơn và việc duy trì mức lợi nhuận hợp
lý. Điều này đặc biệt khó khăn trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng khốc liệt,
tình hình suy thoái sinh tế vẫn là mối đe dọa đến DN toàn cầu nói chung và Việt
Nam nói riêng, cùng với áp lực giảm giá từ người tiêu dùng. Nhiều DN buộc phải
cắt giảm các khoản chi khác như đầu tư vào công nghệ, marketing hoặc thậm chí
là cắt giảm nhân sự.
Khi chi phí vận hành tăng, một số DN có thể buộc phải tăng giá bán sản phẩm và dịch vụ hay giảm tăng lương để duy trì lợi nhuận. Điều này có thể dẫn đến sự phản đối từ phía người tiêu dùng, đặc biệt là trong bối cảnh kinh tế khó khăn. Hơn nữa, việc tăng giá cũng có thể làm giảm tính cạnh tranh của DN trên thị trường, đặc biệt là khi phải cạnh tranh với các sản phẩm, dịch vụ giá rẻ từ nước ngoài.
Ngoài việc phải trả lương cao hơn, DN còn phải đối mặt với áp lực từ các chính sách thuế và BHXH. Khi mức lương tăng, các khoản đóng BHXH, BHYT và các loại thuế liên quan cũng tăng theo. Điều này làm tăng gánh nặng tài chính cho DN, đặc biệt là trong bối cảnh kinh tế chưa ổn định.
Khuyến nghị giải pháp thích ứng cho DN
Một trong những giải pháp để cân bằng lợi ích giữa NLĐ và DNlà áp dụng chính sách lương linh hoạt. Thay vì tăng lương đồng loạt, Chính phủ có thể điều chỉnh MLTT dựa trên từng ngành, nghề và khu vực kinh tế cụ thể. Điều này giúp giảm áp lực tài chính cho các DN trong các ngành, nghề có lợi nhuận thấp hoặc trong các khu vực kinh tế khó khăn.
Chính phủ cũng có thể triển khai các chương trình hỗ trợ DN vừa và nhỏ, giúp họ vượt qua khó khăn khi chi phí lao động tăng cao. Các chương trình này có thể bao gồm các gói vay ưu đãi, hỗ trợ về thuế hoặc các khóa đào tạo nâng cao năng lực quản lý và công nghệ. Đầu tư vào công nghệ là một trong những giải pháp hiệu quả để giảm chi phí lao động và nâng cao hiệu quả sản xuất. Điều này không chỉ giúp DN giảm bớt gánh nặng tài chính mà còn nâng cao năng lực cạnh tranh của họ trên thị trường, và tạo ra một lực lượng lao động có kỹ năng cao hơn
Đối thoại thường xuyên giữa Chính phủ, DN và NLĐ là cần thiết để tìm ra các giải pháp hài hòa lợi ích. Các bên có thể cùng nhau thảo luận, đánh giá tác động của các chính sách và đưa ra các điều chỉnh kịp thời. Điều này giúp đảm bảo rằng chính sách tiền lương không chỉ mang lại lợi ích cho NLĐ mà còn phù hợp với khả năng của DN.
Kết Luận
Cải cách tiền lương là một yếu tố quan trọng trong việc nâng cao chất lượng cuộc sống của NLĐ và thúc đẩy sự phát triển kinh tế bền vững. Trước thềm áp dụng chính sách cải cách tiền lương vào ngày 01/7/2024, các DN Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều thách thức Tuy nhiên, bằng cách triển khai các giải pháp thích hợp và nhận được sự hỗ trợ kịp thời từ Chính phủ, DN hoàn toàn có thể vượt qua khó khăn và phát triển mạnh mẽ hơn. Chính sách cải cách tiền lương không chỉ là bài toán về tài chính, mà còn là cơ hội để DN tái cấu trúc, nâng cao năng suất và cải thiện sức cạnh tranh trong bối cảnh kinh tế toàn cầu ngày càng biến động.
Thực
hiện chính sách cải cách tiền lương, Chính phủ cũng cần cân nhắc để tạo ra một
môi trường kinh doanh ổn định, linh hoạt và hỗ trợ DN nhằm cân bằng lợi ích giữa
NLĐ và DN. Chỉ khi có sự hài hòa giữa lợi ích của hai bên, chúng ta mới có thể
đạt được mục tiêu phát triển kinh tế toàn diện và bền vững, góp phần xây dựng một
xã hội công bằng và thịnh vượng.
[1]
https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn/tu-ngay-1-7-2023-tien-luong-cong-chuc-vien-chuc-se-tang-bao-nhieu
[2] https://baohiemxahoidientu.vn/bhxh/muc-luong-co-so-qua-cac-nam.
Nghị định 203/2004/NĐ-CP, từ
01/10/2004 đến hết tháng 9/2005, lương cơ sở là 290.000 đồng/tháng
Nghị định 118/2005/NĐ-CP, từ
01/10/2005 đến hết tháng 9/2006, lương cơ sở là 350.000 đồng/tháng
Nghị định 94/2006/NĐ-CP, từ
01/10/2006 đến hết tháng 12/2007, lương cơ sở là 450.000 đồng/tháng
Nghị định 166/2007/NĐ-CP, từ
01/01/2008 đến hết tháng 4/2008, lương cơ sở là 5400.000 đồng/tháng
Nghị định 33/2009/NĐ-CP, từ
01/05/2009 đến hết tháng 4/2009, lương cơ sở là 650.000 đồng/tháng
Nghị định 28/2010/NĐ-CP, từ
01/05/2010 đến hết tháng 4/2011, lương cơ sở là 730.000 đồng/tháng
Nghị định 22/2011/NĐ-CP, từ
01/05/2011 đến hết tháng 4/2012, lương cơ sở là 830.000 đồng/tháng
Nghị định 31/2012/NĐ-CP, từ
01/05/2012 đến hết tháng 6/2013, lương cơ sở là 1.050.000 đồng/tháng
Nghị định 66/2013/NĐ-CP, từ
01/07/2013 đến hết tháng 4/2016, lương cơ sở là 1.150.000 đồng/tháng
Nghị định 47/2016/NĐ-CP, từ
01/05/2016 đến hết tháng 6/2017, lương cơ sở là 1.210.000 đồng/tháng
Nghị định 47/2017/NĐ-CP, từ
01/07/2017 đến hết tháng 6/2018, lương cơ sở là 1.300.000 đồng/tháng
Nghị định 72/2018/NĐ-CP, từ
01/07/2018 đến hết tháng 6/2019, lương cơ sở là 1.390.000 đồng/tháng
Nghị quyết 70/2018/QH14, kể từ
01/07/2019, lương cơ sở là 1.490.000 đồng/tháng
Nghị quyết 69/2022/QH15, kể từ ngày
01/07/2023, lương cơ sở là 1.800 000 triệu đồng/tháng
[3] https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn/luong-huu-tro-cap-bhxh-muc-dong-bhyt-se-duoc-dieu-chinh-the-nao-khi-cai-cach-tien-luong.
Luật BHXH - Điều
38. Trợ cấp một lần khi sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi
“Lao động nữ sinh
con hoặc người lao động nhận nuôi con nuôi dưới 06 tháng tuổi thì được trợ cấp
một lần cho mỗi con bằng 02 lần mức lương cơ sở tại tháng lao động nữ
sinh con hoặc tháng người lao động nhận nuôi con nuôi.
Trường hợp sinh con
nhưng chỉ có cha tham gia bảo hiểm xã hội thì cha được trợ cấp một lần bằng 02
lần mức lương cơ sở tại tháng sinh con cho mỗi con.”
Luật BHXH - Điều
66. Trợ cấp mai táng
“…
2. Trợ cấp mai táng
bằng 10 lần mức lương cơ sở tại tháng mà người quy định tại khoản 1 Điều
này chết.”
Luạt BHXH - Điều
68. Mức trợ cấp tuất hằng tháng
“1. Mức trợ cấp tuất
hằng tháng đối với mỗi thân nhân bằng 50% mức lương cơ sở; trường hợp
thân nhân không có người trực tiếp nuôi dưỡng thì mức trợ cấp tuất hằng tháng bằng
70% mức lương cơ sở.”
[4]
BLDS 2015 -
Điều 592. Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm
“…
2. Người chịu trách
nhiệm bồi thường trong trường hợp danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác bị
xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một
khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi
thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận
được thì mức tối đa cho một người có danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm
không quá mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định”
[5]
BHXH TP.HCM –
Công văn 1952/BHXH-TST hướng dẫn thu BHXH, BHYT, BHTN, BH TNLĐ-BNN; quản lý sổ
BHXH, thẻ BHYT
“Mục 3.2 Tiền lương do đơn vị quyết định
d) Mức tiền lương
tháng đóng BHXH, BHYT, BHTN bắt buộc không thấp hơn mức lương tối thiểu vùng tại
thời điểm
đóng đối với người lao động làm công việc hoặc chức danh giản đơn nhất trong
điều kiện lao động bình thường.”